Book cover

CÔNG NHẬN

Arsène Lupin contre Herlock Sholmès

Book cover

Read by Gilles G. Le Blanc for LibriVox in 2013.

Le Numéro 514 — Série 23 I.

Le 8 décembre de l’an dernier, M. Gerbois, professeur de mathématiques au lycée de Versailles, dénicha, dans le fouillis d’un marchand de bric-à-brac, un petit secrétaire en acajou qui lui plut par la multiplicité de ses tiroirs.

Vào ngày 8 tháng 12 năm ngoái, ông Gerbois, một giáo viên toán học tại trường trung học ở Versailles, đã tìm thấy một chiếc bàn làm việc nhỏ bằng gỗ cây acacia trong đống đồ cổ của một thương nhân, và thứ này đã thu hút ông bởi vì có rất nhiều ngăn kéo bên trong.

— Voilà bien ce qu’il me faut pour l’anniversaire de Suzanne, pensa-t-il.

- Đây chính xác là thứ tôi cần cho sinh nhật của Suzanne, ông nghĩ.

Et comme il s’ingéniait, dans la mesure de ses modestes ressources, à faire plaisir à sa fille, il débattit le prix et versa la somme de soixante-cinq francs.

Và vì muốn làm hài lòng con gái mình trong khả năng hạn chế của mình, ông đã thương lượng về giá và trả số tiền 65 franc.

Au moment où il donnait son adresse, un jeune homme, de tournure élégante, et qui furetait déjà de droite et de gauche, aperçut le meuble et demanda :

Khi ông đưa ra địa chỉ của mình, một thanh niên trẻ tuổi, với vẻ ngoài ưa nhìn, vốn đã đang rình mò khắp nơi, đã nhìn thấy chiếc bàn làm việc này và hỏi:

— Combien ?

- Giá bao nhiêu?

— Il est vendu, répliqua le marchand.

- Nó đã được bán rồi, người bán hàng trả lời.

— Ah !... À Monsieur, peut-être ?

- À!... Có lẽ dành cho ngài nhỉ?

M. Gerbois salua et, d’autant plus heureux d’avoir ce meuble qu’un de ses semblables le convoitait, il se retira.

Ông Gerbois chào và rời đi, cảm thấy vui mừng hơn khi có được chiếc bàn làm việc này vì một người khác cũng thích nó.

Mais il n’avait pas fait dix pas dans la rue qu’il fut rejoint par le jeune homme qui, le chapeau à la main et d’un ton de parfaite courtoisie, lui dit :

Nhưng chưa đầy mười bước trên đường, anh chàng này đã đến gần ông, cầm theo chiếc mũ và nói với ông một cách lịch sự:

— Je vous demande infiniment pardon, monsieur... Je vais vous poser une question indiscrète... Cherchiez-vous ce secrétaire plus spécialement qu’autre chose ?

- Tôi xin lỗi nhiều, thưa ngài... Tôi sẽ hỏi một câu hỏi mang tính riêng tư... Ngài có tìm kiếm chiếc bàn làm việc này một cách đặc biệt hơn những thứ khác không?

— Non. Je cherchais une balance d’occasion pour certaines expériences de physique.

- Không. Tôi đang tìm một cái cân cũ cho một số thí nghiệm vật lý.

— Par conséquent, vous n’y tenez pas beaucoup ?

- Vậy thì ngài không coi trọng nó lắm à?

— J’y tiens, voilà tout.

- Tôi coi trọng nó, thế thôi.

— Parce qu’il est ancien, peut-être ?

- Có lẽ vì nó đã cũ rồi?

— Parce qu’il est commode.

- Vì nó rất tiện lợi.

— En ce cas, vous consentiriez à l’échanger contre un secrétaire aussi commode, mais en meilleur état ?

- Trong trường hợp này, ngài có sẵn sàng đổi nó lấy một chiếc bàn làm việc cũng tiện lợi như vậy, nhưng trong tình trạng tốt hơn không?

— Celui-ci est en bon état, et l’échange me paraît inutile.

- Cái này vẫn còn trong tình trạng tốt, và việc đổi nó có vẻ không cần thiết.

— Cependant...

- Tuy nhiên...

M. Gerbois est un homme facilement irritable et de caractère ombrageux. Il répondit sèchement :

Ông Gerbois là một người dễ cáu giận và có tính khí nóng nảy. Ông trả lời một cách không mấy thân thiện:

— Je vous en prie, monsieur, n’insistez pas.

- Tôi xin ngài, đừng tiếp tục nữa.

L’inconnu se planta devant lui.

Người đàn ông lạ mặt này đứng trước mặt ông ta.

— J’ignore le prix que vous l’avez payé, monsieur... je vous en offre le double.

- Tôi không biết ngài đã trả bao nhiêu cho nó, thưa ngài... nhưng tôi đề nghị trả gấp đôi số tiền đó cho ngài.

— Non.

- Không.

— Le triple ?

- Gấp ba số tiền đó thì sao?

— Oh ! restons-en là, s’écria le professeur, impatienté, ce qui m’appartient n’est pas à vendre.

- Ôi! Hãy dừng lại ở đây thôi, giáo sư nói một cách khó chịu, những gì là của tôi thì không phải để bán.

Le jeune homme le regarda fixement, d’un air que M. Gerbois ne devait pas oublier, puis, sans mot dire, tourna sur ses talons et s’éloigna.

Người thanh niên nhìn chằm chằm ông ta bằng một cái nhìn mà ông Gerbois sẽ không bao giờ quên, rồi không nói một lời nào, ông ta quay đi và bỏ đi.

Une heure après on apportait le meuble dans la maisonnette que le professeur occupait sur la route de Viroflay. Il appela sa fille.

Một giờ sau, món đồ nội thất này được đưa vào căn nhà nhỏ mà giáo sư đang ở trên con đường dẫn đến Viroflay. Ông gọi con gái mình đến.

— Voici pour toi, Suzanne, si toutefois il te convient.

- Đây là cho con, Suzanne, nếu con thích nó.

Suzanne était une jolie créature, expansive et heureuse. Elle se jeta au cou de son père et l’embrassa avec autant de joie que s’il lui avait offert un cadeau royal.

Suzanne là một cô gái xinh đẹp, hạnh phúc và vui tính. Cô ấy vùi mình vào vòng tay cha mình và hôn lên mặt ông với niềm vui sướng như thể ông đã tặng cho cô một món quà vô giá.

Le soir même, l’ayant placé dans sa chambre avec l’aide d’Hortense, la bonne, elle nettoya les tiroirs et rangea soigneusement ses papiers, ses boîtes à lettres, sa correspondance, ses collections de cartes postales, et quelques souvenirs furtifs qu’elle conservait en l’honneur de son cousin Philippe.

Tối hôm đó, sau khi Hortense, người hầu, giúp đỡ ông để đặt món đồ nội thất này vào phòng mình, cô ấy đã dọn sạch các ngăn kéo và sắp xếp cẩn thận các tài liệu, hộp thư, thư từ, bộ sưu tập bưu thiếp và một vài kỷ vật mà cô ấy giữ lại như một sự tôn vinh dành cho người em họ Philippe của mình.

Le lendemain, à sept heures et demie, M. Gerbois se rendit au lycée. À dix heures, Suzanne, suivant une habitude quotidienne, l’attendait à la sortie, et c’était un grand plaisir pour lui que d’aviser, sur le trottoir opposé à la grille, sa silhouette gracieuse et son sourire d’enfant.

Ngày hôm sau, lúc 7 giờ rưỡi, ông Gerbois đến trường trung học. Lúc 10 giờ, Suzanne, theo thói quen hàng ngày, đang đợi cha mình ở lối ra, và đối với ông, thật là một niềm vui lớn khi nhìn thấy, trên vỉa hè đối diện cổng trường, hình dáng duyên dáng và nụ cười trẻ con của cô ấy.

Ils s’en revinrent ensemble.

Họ trở về cùng nhau.

— Et ton secrétaire ?

- Và thư ký của bạn thì sao?

— Une pure merveille ! Hortense et moi, nous avons fait les cuivres. On dirait de l’or.

- Thật là tuyệt vời! Hortense và tôi đã dọn dẹp tất cả. Chúng trông như vàng.

— Ainsi, tu es contente ?

- Vậy là bạn hài lòng rồi à?

— Si je suis contente ! c’est-à-dire que je ne sais pas comment j’ai pu m’en passer jusqu’ici.

- Hài lòng lắm! Tôi không biết làm sao tôi đã có thể sống mà không có chúng cho đến nay.

Ils traversèrent le jardin qui précède la maison. M. Gerbois proposa :

Họ băng qua khu vườn phía trước ngôi nhà. Ông Gerbois đề nghị:

— Nous pourrions aller le voir avant le déjeuner ?

- Chúng ta có thể đến thăm chúng trước bữa trưa không nhỉ?

— Oh ! oui, c’est une bonne idée.

- Oh! Vâng, đó là một ý tưởng không tồi.

Elle monta la première, mais, arrivée au seuil de sa chambre, elle poussa un cri d’effarement.

Cô ấy đi lên trước, nhưng khi đến ngưỡng cửa phòng mình, cô ấy đã kêu lên một tiếng kinh hãi.

— Qu’y a-t-il donc ? balbutia M. Gerbois.

- Có chuyện gì vậy? Ông Gerbois lắp bắp.

À son tour il entra dans la chambre. Le secrétaire n’y était plus.

Ông cũng bước vào phòng. Người thư ký không còn ở đó nữa.

...Ce qui étonna le juge d’instruction, c’est l’admirable simplicité des moyens employés.

...Điều khiến thẩm phán ngạc nhiên chính là sự đơn giản tuyệt vời của các phương pháp được sử dụng.

En l’absence de Suzanne, et tandis que la bonne faisait son marché, un commissionnaire muni de sa plaque — des voisins la virent — avait arrêté sa charrette devant le jardin et sonné par deux fois.

Trong thời gian Suzanne không có mặt, và khi người hầu gái đi mua sắm, một người chuyển phát nhanh mang theo bảng hiệu của mình - một số hàng xóm nhìn thấy anh ta - đã dừng xe ngựa trước khu vườn và đổ chuông hai lần.

Les voisins, ignorant que la bonne était dehors, n’eurent aucun soupçon, de sorte que l’individu effectua sa besogne dans la plus absolue quiétude.

Các hàng xóm, không biết rằng người hầu gái đang ở bên ngoài, không hề nghi ngờ gì, vì vậy người đàn ông này đã hoàn thành công việc của mình trong sự yên tĩnh tuyệt đối.

À remarquer ceci : aucune armoire ne fut fracturée, aucune pendule dérangée.

Đáng chú ý là không có tủ nào bị cập, không có chiếc đồng hồ nào bị xáo trộn.

Bien plus, le porte-monnaie de Suzanne, qu’elle avait laissé sur le marbre du secrétaire, se retrouva sur la table voisine avec les pièces d’or qu’il contenait.

Thậm chí, chiếc ví của Suzanne, mà cô ấy để trên bàn làm việc của người thư ký, cũng xuất hiện trên bàn bên cạnh với những đồng vàng bên trong.

Le mobile du vol était donc nettement déterminé, ce qui rendait le vol d’autant plus inexplicable, car, enfin, pourquoi courir tant de risques pour un butin si minime ?

Vì vậy, mục đích của vụ trộm này được xác định rõ ràng, nhưng nó lại càng không thể giải thích được, bởi vì, cuối cùng thì tại sao phải mạo hiểm như vậy cho một chiến lợi nhỏ như vậy?

Le seul indice que put fournir le professeur fut l’incident de la veille.

Đầu mối duy nhất mà giáo sư có thể cung cấp chính là sự cố ngày hôm trước.

— Tout de suite ce jeune homme a marqué, de mon refus, une vive contrariété, et j’ai eu l’impression très nette qu’il me quittait sur une menace.

- Ngay lập tức, chàng trai trẻ này đã thể hiện sự phiền lòng mạnh mẽ về sự từ chối của tôi, và tôi có cảm giác rất rõ ràng rằng anh ta rời khỏi tôi dưới sự đe dọa.

C’était bien vague. On interrogea le marchand. Il ne connaissait ni l’un ni l’autre de ces deux messieurs. Quant à l’objet, il l’avait acheté quarante francs, à Chevreuse, dans une vente après décès, et croyait bien l’avoir revendu à sa juste valeur. L’enquête poursuivie n’apprit rien de plus.

Điều đó rất mơ hồ. Người bán hàng được thẩm vấn. Anh ta không biết gì về hai người đàn ông này. Về đối tượng, anh ta đã mua nó ở Chevreuse với giá 40 franc trong một buổi bán đồ sau khi chết, và anh ta tin rằng mình đã bán lại nó với giá trị thực của nó. Cuộc điều tra tiếp tục không mang lại thêm thông tin nào.

Mais M. Gerbois resta persuadé qu’il avait subi un dommage énorme. Une fortune devait être dissimulée dans le double-fond d’un tiroir, et c’était la raison pour laquelle le jeune homme, connaissant la cachette, avait agi avec une telle décision.

Nhưng ông Gerbois vẫn tin rằng mình đã bị tổn hại rất lớn. Một khối tài sản đáng kể hẳn là được giấu trong một hộp kép của một ngăn kéo, và đó là lý do tại sao chàng trai trẻ này, biết về nơi cất giấu, lại hành động một cách quyết đoán như vậy.

— Mon pauvre père, qu’aurions-nous fait de cette fortune ? répétait Suzanne.

- Cha tội nghiệp của tôi, chúng ta sẽ làm gì với khối tài sản đó? Suzanne lặp lại.

— Comment ! mais avec une pareille dot, tu pouvais prétendre aux plus hauts partis.

- Làm sao? Nhưng với một khoản hồi môn như vậy, bạn có thể cưới một người đàn ông giàu có nhất.

Suzanne, qui bornait ses prétentions à son cousin Philippe, lequel était un parti pitoyable, soupirait amèrement. Et dans la petite maison de Versailles, la vie continua, moins gaie, moins insouciante, assombrie de regrets et de déceptions.

Suzanne, người chỉ hướng tới người anh họ Philippe của mình, một lựa chọn tầm thường, thở dài đắng cay. Và trong ngôi nhà nhỏ ở Versailles, cuộc sống tiếp tục, kém vui vẻ, kém vô tư, chìm trong nỗi buồn và thất vọng.

Deux mois se passèrent. Et soudain, coup sur coup, les événements les plus graves, une suite imprévue d’heureuses chances et de catastrophes !...

Hai tháng trôi qua. Và đột nhiên, liên tiếp, những sự kiện nghiêm trọng nhất, một chuỗi may mắn và thảm họa bất ngờ!...

Le premier février, à cinq heures et demie, M. Gerbois, qui venait de rentrer, un journal du soir à la main, s’assit, mit ses lunettes et commença à lire. La politique ne l’intéressant pas, il tourna la page. Aussitôt un article attira son attention, intitulé :

Vào ngày 2 tháng Hai, lúc 5 giờ rưỡi, ông Gerbois, vừa trở về, tờ báo buổi tối trong tay, ngồi xuống, mang kính và bắt đầu đọc. Chính trị không thú vị lắm ông ta, nên ông ta lật trang. Ngay lập tức một bài báo thu hút sự chú ý của ông ta, có tựa đề:

« Troisième tirage de la loterie des Associations de la Presse... »

"Lần rút thăm thứ ba của Xổ số Hiệp hội Báo chí..."

« Le numéro 514-série 23 gagne un million... »

"Số 514-loạt 23 trúng một triệu..."

Le journal lui glissa des doigts. Les murs vacillèrent devant ses yeux, et son cœur cessa de battre. Le numéro 514-série 23, c’était son numéro ! Il l’avait acheté par hasard, pour rendre service à l’un de ses amis, car il ne croyait guère aux faveurs du destin, et voilà qu’il gagnait !

Tờ báo rơi khỏi tay ông ta. Những bức tường chao đảo trước mắt, và trái tim ông ta ngừng đập. Số 514-loạt 23, đó là số của ông ta! Ông ta đã mua nó một cách tình cờ, để làm hài lòng một người bạn, vì ông ta không tin vào những ân huệ của số phận, và này, anh ấy đã thắng!

Vite, il tira son calepin. Le numéro 514-série 23 était bien inscrit, pour mémoire, sur la page de garde. Mais le billet ?

Nhanh chóng, anh ta lấy ra cuốn sổ ghi chú của mình. Số 514-loạt 23 được ghi chú rõ ràng, như một lời nhắc nhở, trên trang đầu. Nhưng tờ vé đâu?

Il bondit vers son cabinet de travail pour y chercher la boîte d’enveloppes parmi lesquelles il avait glissé le précieux billet, et dès l’entrée il s’arrêta net, chancelant de nouveau et le cœur contracté : la boîte d’enveloppes ne se trouvait pas là, et, chose terrifiante, il se rendait subitement compte qu’il y avait des semaines qu’elle n’était pas là !

Anh ta lao vào phòng làm việc của mình để tìm kiếm hộp phong bì mà anh ta đã cho vé vào, và ngay khi bước vào, anh ta dừng lại, chao đảo một lần nữa và trái tim anh ta co lại: hộp phong bì không ở đó, và điều khủng khiếp hơn, anh ta chợt nhận ra rằng nó đã không ở đó trong nhiều tuần rồi!

Depuis des semaines, il ne l’apercevait plus devant lui aux heures où il corrigeait les devoirs de ses élèves !

Trong nhiều tuần, anh ta không còn thấy nó ở trước mặt mình vào những giờ anh ta sửa bài tập cho học sinh của mình nữa!

Un bruit de pas sur le gravier du jardin... Il appela :

Một tiếng động trên mặt đất trong vườn... Anh ta gọi:

— Suzanne ! Suzanne !

— Suzanne! Suzanne!

Elle arrivait de course. Elle monta précipitamment. Il bégaya d’une voix étranglée :

Cô ấy chạy đến. Cô ấy vội vàng leo lên. Anh ta lắp bắp bằng một giọng khàn khàn:

— Suzanne... la boîte... la boîte d’enveloppes ?...

— Suzanne... hộp... hộp phong bì?...

— Laquelle ?

— Cái nào?

— Celle du Louvre... que j’avais rapportée un jeudi... et qui était au bout de cette table.

— Cái hộp từ bảo tàng Louvre... mà tôi đã mang về vào thứ Năm... và để ở cuối bàn này.

— Mais rappelle-toi, père... c’est ensemble que nous l’avons rangée...

— Nhưng hãy nhớ đi, cha ạ... chúng ta đã cùng nhau sắp xếp nó...

— Quand ?

— Khi nào?

— Le soir... tu sais... la veille du jour...

— Vào buổi tối... mày biết đấy... ngày hôm trước...

— Mais où ?... réponds... tu me fais mourir...

— Nhưng ở đâu?... Trả lời nào... mày làm tao phát điên mất...

— Où ?... dans le secrétaire.

— Ở đâu?... Trong tủ sách.

— Dans le secrétaire qui a été volé ?

— Trong tủ sách mà bị trộm rồi à?

— Oui.

— Phải.

— Dans le secrétaire qui a été volé !

— Trong tủ sách mà bị trộm rồi!

Il répéta ces mots tout bas, avec une sorte d’épouvante. Puis il lui saisit la main, et d’un ton plus bas encore :

Ông ta lặp lại những từ đó một cách thầm lặng, với một chút kinh hoàng. Rồi anh ta nắm lấy tay ông ta, và bằng một giọng thậm chí còn thấp hơn:

— Elle contenait un million, ma fille...

— Nó chứa một triệu đồng, con gái của tôi ạ...

— Ah ! père, pourquoi ne me l’as-tu pas dit ? murmura-t-elle naïvement.

— À! Bố ơi, sao bố lại không nói với con vậy? nàng thì thầm một cách ngây thơ.

— Un million ! reprit-il, c’était le numéro gagnant des bons de la Presse.

— Một triệu đồng! anh ta nói tiếp, đó là số chiến thắng của vé số báo chí.

L’énormité du désastre les écrasait, et longtemps ils gardèrent un silence qu’ils n’avaient pas le courage de rompre.

Sự tồi tệ của thảm họa này áp lên họ như một gánh nặng, và họ im lặng trong một thời gian dài, không dám phá vỡ sự im lặng đó.

Enfin Suzanne prononça :

Cuối cùng Suzanne cũng nói lên:

— Mais, père, on te le paiera tout de même.

— Nhưng mà, bố ạ, họ vẫn sẽ trả tiền cho bố mà.

— Pourquoi ? sur quelles preuves ?

— Tại sao vậy? dựa trên bằng chứng gì?

— Il faut donc des preuves ?

— Vậy là cần phải có bằng chứng à?

— Parbleu !

— Chắc chắn rồi!

— Et tu n’en as pas ?

— Và bố không có bằng chứng à?

— Si, j’en ai une.

— Có, tôi có một bằng chứng.

— Alors ?

— Vậy thì sao?

— Elle était dans la boîte.

— Nó ở trong hộp.

— Dans la boîte qui a disparu ?

— Trong hộp đã biến mất à?

— Oui. Et c’est l’autre qui touchera.

— Đúng vậy. Và người khác sẽ chạm vào nó.

— Mais ce serait abominable ! Voyons, père, tu pourras t’y opposer ?

— Nhưng điều đó thật khủng khiếp! Hãy xem này, bố ạ, bố có thể phản đối việc đó không?

— Est-ce qu’on sait ! est-ce qu’on sait ! cet homme doit être si fort ! il dispose de telles ressources !... Souviens-toi... l’affaire de ce meuble...

— Ai mà biết được! Ai mà biết được! Người đàn ông đó hẳn là rất mạnh mẽ! Anh ta có rất nhiều nguồn lực!... Hãy nhớ đấy... chuyện về món đồ nội thất đó...

Il se releva dans un sursaut d’énergie, et frappant du pied :

Ông đứng dậy với sức mạnh mới, và đập chân xuống:

— Eh bien, non, non, il ne l’aura pas, ce million, il ne l’aura pas ! Pourquoi l’aurait-il ? Après tout, si habile qu’il soit, lui non plus ne peut rien faire. S’il se présente pour toucher, on le coffre ! Ah ! nous verrons bien, mon bonhomme !

— Chà, đúng vậy, không, không, anh ta sẽ không nhận được một triệu đô la đó, anh ta sẽ không nhận được! Tại sao anh ta lại nhận được chứ? Sau tất cả thì, dù anh ta có khéo léo đến mức nào, anh ta cũng không thể làm gì được. Nếu anh ta xuất hiện để nhận tiền, chúng ta sẽ bỏ tù anh ta! À! Chúng ta sẽ xem thế nào, anh bạn ạ!

— Tu as donc une idée, père ?

— Vậy thì bố có ý tưởng gì, bố à?

— Celle de défendre nos droits, jusqu’au bout, quoi qu’il arrive ! Et nous réussirons !... Le million est à moi : je l’aurai !

— Đó là bảo vệ quyền lợi của chúng ta, cho đến cùng, dù có chuyện gì xảy ra! Và chúng ta sẽ thành công!... Một triệu đô la là của tôi: tôi sẽ nhận được nó!

Quelques minutes plus tard, il expédiait cette dépêche :

Vài phút sau, ông gửi đi một bức điện như sau:

« Gouverneur Crédit Foncier, « rue Capucines, Paris. « Suis possesseur du numéro 514-série 23, mets opposition par toutes voies légales à toute réclamation étrangère. « Gerbois. » Presque en même temps parvenait au Crédit Foncier cet autre télégramme :

“Thống đốc Crédit Foncier, Rue Capucines, Paris. Tôi là chủ sở hữu số 514-loạt 23, tôi phản đối bằng mọi phương tiện hợp pháp bất kỳ khiếu nại nào từ bên ngoài. Gerbois.” Gần như cùng lúc đó, Crédit Foncier nhận được bức điện khác:

« Le numéro 514-série 23 est en ma possession. « Arsène Lupin. »

“Số 514-loạt 23 đang ở trong tay tôi. Arsène Lupin.”

Chaque fois que j’entreprends de raconter quelqu’une des innombrables aventures dont se compose la vie d’Arsène Lupin, j’éprouve une véritable confusion, tellement il me semble que la plus banale de ces aventures est connue de tous ceux qui vont me lire.

Mỗi lần tôi cố gắng kể lại một trong những chuyện phiêu lưu vô số trong cuộc đời của Arsène Lupin, tôi lại cảm thấy thực sự bối rối, vì tôi cảm thấy rằng chuyện tầm thường nhất trong số những chuyện phiêu lưu đó cũng được tất cả những người sẽ đọc câu chuyện này biết đến.

De fait, il n’est pas un geste de notre « voleur national », comme on l’a si joliment appelé, qui n’ait été signalé de la façon la plus retentissante, pas un exploit que l’on n’ait étudié sous toutes ses faces, pas un acte qui n’ait été commenté avec cette abondance de détails que l’on réserve d’ordinaire au récit des actions héroïques.

Thật vậy, không có một hành động nào của “tên trộm quốc gia” của chúng ta, như anh ta được gọi một cách hóm hỉnh, mà không được loan truyền một cách ồn ào nhất có thể. Không có một chiến công nào mà không được nghiên cứu từ mọi góc độ, không có một hành động nào mà không được bình luận chi tiết, như thường lệ khi kể lại những hành động anh hùng.

Qui ne connaît, par exemple, cette étrange histoire de « La Dame Blonde », avec ces épisodes curieux que les reporters intitulaient en gros caractères : Le numéro 514-série 23 !...

Ai mà không biết, ví dụ, câu chuyện kỳ lạ về “Quý cô tóc vàng”, với những tình huống thú vị mà các phóng viên gọi bằng những chữ in đậm: Số 514-loạt 23!...

Le crime de l’avenue Henri-Martin !...

Vụ án ở đại lộ Henri-Martin!...

Le diamant bleu !...

Viên kim cương xanh!...

Quel bruit autour de l’intervention du fameux détective anglais Herlock Sholmès !

Sự ồn ào xung quanh sự can thiệp của thám tử nổi tiếng người Anh Herlock Sholmès!

Quelle effervescence après chacune des péripéties qui marquèrent la lutte de ces deux grands artistes !

Sự phấn khích sau mỗi một sự kiện đánh dấu cuộc đấu tranh giữa hai nghệ sĩ vĩ đại này!

Et quel vacarme sur les boulevards, le jour où les camelots vociféraient : « L’arrestation d’Arsène Lupin ! »

Và sự ồn ào trên các đại lộ, vào ngày mà những người bán báo hét lên: “Bắt giữ Arsène Lupin!”

Mon excuse, c’est que j’apporte du nouveau : j’apporte le mot de l’énigme.

Lời bào chữa của tôi là tôi đang mang đến một điều mới: tôi đang mang đến câu trả lời cho câu đố này.

Il reste toujours de l’ombre autour de ces aventures : je la dissipe.

Vẫn còn nhiều bí ẩn xung quanh những cuộc phiêu lưu này: tôi sẽ làm sáng tỏ chúng.

Je reproduis des articles lus et relus, je recopie d’anciennes interviews : mais tout cela, je le coordonne, je le classe, et je le soumets à l’exacte vérité.

Tôi sao chép những bài báo đã được đọc và đọc lại nhiều lần, tôi sao chép những cuộc phỏng vấn cũ: nhưng tất cả những điều đó, tôi sẽ phối hợp chúng, phân loại chúng, và trình bày chúng theo sự thật chính xác.

Mon collaborateur, c’est Arsène Lupin dont la complaisance à mon égard est inépuisable.

Cộng tác viên của tôi chính là Arsène Lupin, người luôn sẵn sàng hợp tác với tôi mà không hề mệt mỏi.

Et c’est aussi, en l’occurrence, l’ineffable Wilson, l’ami et le confident de Sholmès.

Và trong trường hợp này, còn có Wilson, người bạn và người tâm sự của Sholmès, một người đầy bí ẩn.

On se rappelle le formidable éclat de rire qui accueillit la publication de la double dépêche. Le nom seul d’Arsène Lupin était un gage d’imprévu, une promesse de divertissement pour la galerie. Et la galerie, c’était le monde entier.

Chúng ta vẫn có thể nhớ lại tiếng cười lớn khi đọc bản tin kép. Chỉ riêng cái tên Arsène Lupin cũng là một cam kết về sự bất ngờ, một lời hứa về sự giải trí cho công chúng. Và công chúng ấy chính là cả thế giới.

Des recherches opérées aussitôt par le Crédit Foncier, il résulta que le numéro 514-série 23 avait été délivré par l’intermédiaire du Crédit Lyonnais, succursale de Versailles, au commandant d’artillerie Bessy.

Từ những cuộc điều tra ngay lập tức do Crédit Foncier thực hiện, kết quả cho thấy số 514-loạt 23 đã được cấp cho chỉ huy đoàn pháo binh Bessy thông qua chi nhánh Crédit Lyonnais tại Versailles.

Or, le commandant était mort d’une chute de cheval.

Tuy nhiên, vị chỉ huy này đã chết vì một vụ ngã khỏi ngựa.

On sut, par des camarades auxquels il s’était confié que, quelque temps avant sa mort, il avait dû céder son billet à un ami.

Chúng tôi được biết từ những người đồng đội mà anh ấy đã tâm sự rằng, một khoảng thời gian trước khi anh mất, anh đã phải nhường lại vé cho một người bạn.

— Cet ami, c’est moi, affirma M. Gerbois.

- Người bạn đó chính là tôi, M. Gerbois khẳng định.

— Prouvez-le, objecta le gouverneur du Crédit Foncier.

- Hãy chứng minh điều đó, thống đốc của Crédit Foncier phản đối.

— Que je le prouve ? Facilement. Vingt personnes vous diront que j’avais avec le commandant des relations suivies et que nous nous rencontrions au café de la Place d’Armes. C’est là qu’un jour, pour l’obliger dans un moment de gêne, je lui ai repris son billet contre la somme de vingt francs.

- Chứng minh sao? Rất dễ dàng. Hai mươi người sẽ nói với bạn rằng tôi đã có mối quan hệ thân thiết với vị chỉ huy này và chúng tôi thường gặp nhau tại quán cà phê Place d’Armes. Chính tại đó, một ngày nọ, khi anh ấy gặp khó khăn, tôi đã mua lại vé của anh với số tiền 20 franc.

— Vous avez des témoins de cet échange ?

- Bạn có những nhân chứng cho cuộc trao đổi đó không?

— Non.

- Không.

— En ce cas, sur quoi fondez-vous votre réclamation ?

- Vậy thì bạn dựa vào điều gì để đưa ra khiếu nại này?

— Sur la lettre qu’il m’a écrite à ce sujet.

- Dựa vào bức thư mà anh ấy đã viết cho tôi về chuyện đó.

— Quelle lettre ?

- Bức thư nào cơ?

— Une lettre qui était épinglée avec le billet.

- Một bức thư được ghim vào vé.

— Montrez-la.

- Cho tôi xem nhé.

— Mais elle se trouvait dans le secrétaire volé !

- Nhưng nó đã ở trong chiếc hộp bị trộm rồi!

— Retrouvez-la.

- Hãy tìm lại nó cho tôi.

Arsène Lupin la communiqua, lui.

Arsène Lupin đã cung cấp bức thư đó cho anh ta.

Une note insérée par l’Écho de France — lequel a l’honneur d’être son organe officiel, et dont il est, paraît-il, un des principaux actionnaires — une note annonça qu’il remettait entre les mains de Me Detinan, son avocat-conseil, la lettre que le commandant Bessy lui avait écrite, à lui personnellement.

Một thông báo được đăng trên tờ Écho de France - tờ báo chính thức của anh ta, và anh ta cũng là một trong những cổ đông chính - thông báo rằng anh ta đã giao cho luật sư Me Detinan bức thư mà chỉ huy Bessy đã viết riêng cho anh ta.

Ce fut une explosion de joie : Arsène Lupin prenait un avocat ! Arsène Lupin, respectueux des règles établies, désignait pour le représenter un membre du barreau !

Đó là một sự phấn khích lớn: Arsène Lupin đã thuê một luật sư! Arsène Lupin, một người tôn trọng các quy tắc thiết lập, đã chỉ định một thành viên của Hiệp hội Luật sư để đại diện cho anh ta!

Toute la presse se rua chez Me Detinan, député radical influent, homme de haute probité en même temps que d’esprit fin, un peu sceptique, volontiers paradoxal.

Toàn bộ báo chí đã ập tới văn phòng của Me Detinan, một nghị viên cấp tiến có ảnh hưởng, một người có đạo đức cao và trí tuệ sắc bén, một chút hoài nghi, và thích nói những điều trái ngược.

Me Detinan n’avait jamais eu le plaisir de rencontrer Arsène Lupin — et il le regrettait vivement — mais il venait de recevoir ses instructions, et, très touché d’un choix dont il sentait tout l’honneur, il comptait défendre vigoureusement le droit de son client.

Me Detinan chưa từng có cơ hội gặp Arsène Lupin - và ông rất tiếc vì điều đó - nhưng ông vừa nhận được hướng dẫn từ thân chủ, và rất cảm động trước sự lựa chọn mà anh ta cảm thấy vô cùng vinh dự, ông dự định sẽ bảo vệ mạnh mẽ quyền lợi của thân chủ mình.

Il ouvrit donc le dossier nouvellement constitué, et, sans détours, exhiba la lettre du commandant.

Vì vậy, ông mở hồ sơ mới thành lập, và không chần chừ, lấy ra bức thư từ chỉ huy.

Elle prouvait bien la cession du billet, mais ne mentionnait pas le nom de l’acquéreur. «

Bức thư chứng minh việc chuyển nhượng vé, nhưng không đề cập tới tên của người mua.

Mon cher ami... »,

“Thân mến của tôi...”,

disait-elle simplement.

bức thư đơn giản nói như vậy.

— « Mon cher ami », c’est moi, ajoutait Arsène Lupin dans une note jointe à la lettre du commandant. Et la meilleure preuve c’est que j’ai la lettre.

- “Thân mến của tôi”, chính là tôi đây, Arsène Lupin bổ sung trong một ghi chú kèm theo bức thư từ chỉ huy. Và bằng chứng tốt nhất là tôi đang có bức thư này.

La nuée des reporters s’abattit immédiatement chez M. Gerbois qui ne put que répéter :

Đám đông các phóng viên ngay lập tức ập tới văn phòng của M. Gerbois, người chỉ có thể nói lại:

— « Mon cher ami » n’est autre que moi. Arsène Lupin a volé la lettre du commandant avec le billet de loterie.

- “Thân mến của tôi” chính là tôi. Arsène Lupin đã trộm bức thư từ chỉ huy cùng với vé xổ số.

— Qu’il le prouve ! riposta Lupin aux journalistes.

- Hãy chứng minh điều đó! Lupin trả lời các nhà báo.

— Mais puisque c’est lui qui a volé le secrétaire ! s’exclama M. Gerbois devant les mêmes journalistes.

- Nhưng chính anh ta đã trộm thư ký! M. Gerbois phản ứng trước mặt các nhà báo tương tự.

Et Lupin riposta :

Và Lupin trả lời:

— Qu’il le prouve !

- Hãy chứng minh điều đó!

Et ce fut un spectacle d’une fantaisie charmante que ce duel public entre les deux possesseurs du numéro 514-série 23, que ces allées et venues des reporters, que le sang-froid d’Arsène Lupin en face de l’affolement de ce pauvre M. Gerbois.

Và đó là một cảnh tượng hết sức thú vị với cuộc tranh luận công khai giữa hai chủ sở hữu của mã số 514-series 23, sự đi lại của các phóng viên, sự bình tĩnh của Arsène Lupin trước sự hoảng loạn của M. Gerbois tội nghiệp.

Le malheureux, la presse était remplie de ses lamentations ! Il confiait son infortune avec une ingénuité touchante.

Thật tội nghiệp cho anh ấy, báo chí đầy những lời than phiền của anh! Anh ấy kể lại sự bất hạnh của mình với sự ngây thơ đầy cảm động.

— Comprenez-le, Messieurs, c’est la dot de Suzanne que ce gredin me dérobe ! Pour moi, personnellement, je m’en moque, mais pour Suzanne ! Pensez donc, un million ! Dix fois cent mille francs ! Ah ! je savais bien que le secrétaire contenait un trésor !

- Các bạn hiểu đấy, chính là khoản tiền hồi môn của Suzanne mà tên khốn đó đang trộm! Với tôi thì không thành vấn đề, nhưng với Suzanne thì sao? Hãy tính nhé, một triệu! Mười lần một trăm ngàn franc! À! Tôi đã biết rằng chiếc hộp chứa một kho tàng!

On avait beau lui objecter que son adversaire, en emportant le meuble, ignorait la présence d’un billet de loterie, et que nul en tout cas ne pouvait prévoir que ce billet gagnerait le gros lot, il gémissait :

Dù cho người ta có chỉ ra rằng đối thủ của anh ấy đã không biết về sự tồn tại của vé xổ số khi lấy đi chiếc hộp, và dù cho không ai có thể dự đoán được rằng vé đó sẽ trúng số độc đắc, anh ấy vẫn than thở:

— Allons donc, il le savait !... Sinon pourquoi se serait-il donné la peine de prendre ce misérable meuble ?

- Thôi nào, anh ấy biết đấy!... Nếu không, tại sao anh ấy lại bỏ công sức lấy cái hộp tầm thường đó chứ?

— Pour des raisons inconnues, mais certes point pour s’emparer d’un chiffon de papier qui valait alors la modeste somme de vingt francs.

- Vì những lý do không rõ, nhưng chắc chắn không phải để chiếm lấy một mảnh giấy vốn đáng giá khoảng hai mươi franc tại thời điểm đó.

— La somme d’un million ! Il le savait... Il sait tout !... Ah ! vous ne le connaissez pas, le bandit !... Il ne vous a pas frustré d’un million, vous !

- Một khoản tiền một triệu! Anh ấy biết đấy... Anh ấy biết tất cả!... À! Các bạn không biết anh ta đâu, tên cướp này!... Anh ta không cướp đi một triệu từ các bạn!

Le dialogue aurait pu durer longtemps. Mais le douzième jour, M. Gerbois reçut d’Arsène Lupin une missive qui portait la mention « confidentielle ». Il lut, avec une inquiétude croissante :

Đoạn hội thoại có thể kéo dài mãi mãi. Nhưng vào ngày thứ mười hai, M. Gerbois nhận được một bức thư từ Arsène Lupin với chữ "bí mật". Anh đọc nó với sự lo lắng ngày càng tăng:

« Monsieur, la galerie s’amuse à nos dépens.

"Thưa ngài, phòng trưng bày này đang chơi xấu chúng ta."

N’estimez-vous pas le moment venu d’être sérieux ?

"Chẳng lẽ ngài không nghĩ rằng đã đến lúc nên nghiêm túc hơn sao?"

J’y suis, pour ma part, fermement résolu. «

"Về phần tôi, tôi đã quyết tâm như vậy rồi."

La situation est nette : je possède un billet que je n’ai pas, moi, le droit de toucher, et vous avez, vous, le droit de toucher un billet que vous ne possédez pas.

"Tình hình rất rõ ràng: tôi sở hữu một vé mà tôi không có quyền sở hữu, còn ngài thì có quyền sở hữu một vé mà ngài không sở hữu."

Donc nous ne pouvons rien l’un sans l’autre. «

"Vì vậy, chúng ta không thể làm gì nếu không có nhau."

Or, ni vous ne consentiriez à me céder votre droit, ni moi à vous céder mon billet. «

"Thế nhưng, ngài sẽ không chấp nhận nhượng lại quyền cho tôi, còn tôi cũng sẽ không nhượng lại vé cho ngài."

Que faire ? «

"Phải làm gì bây giờ?"

Je ne vois qu’un moyen, séparons.

"Tôi chỉ thấy một cách duy nhất, chúng ta nên chia tay nhau."

Un demi-million pour vous, un demi-million pour moi.

"Nửa triệu cho ngài, nửa triệu cho tôi."

N’est-ce pas équitable ?

"Đó chẳng phải là một cách công bằng sao?"

Et ce jugement de Salomon ne satisfait-il pas à ce besoin de justice qui est en chacun de nous ? «

"Và phán quyết của vua Salomon chẳng phải đáp ứng được nhu cầu công lý trong mỗi chúng ta sao?"

Solution juste, mais solution immédiate.

"Một giải pháp công bằng, nhưng lại là một giải pháp tức thì."

Ce n’est pas une offre que vous ayez le loisir de discuter, mais une nécessité à laquelle les circonstances vous contraignent à vous plier.

"Đây không phải là một lời đề nghị mà ngài có thể thảo luận, mà là một nhu cầu mà hoàn cảnh buộc ngài phải tuân theo."

Je vous donne trois jours pour réfléchir.

"Tôi cho ngài ba ngày để suy nghĩ về điều này."

Vendredi matin, j’aime à croire que je lirai, dans les petites annonces de l’Écho de France, une note discrète adressée à M. Ars.

"Vào sáng thứ Sáu, tôi hy vọng sẽ đọc thấy một thông báo nhỏ gửi tới Ngài Ars trong mục rao vặt của tờ Écho de France."

Lup.

Sói.

et contenant, en termes voilés, votre adhésion pure et simple au pacte que je vous propose.

Và một cách mơ hồ, thông báo đó sẽ bày tỏ sự chấp thuận hoàn toàn của ngài với thỏa thuận mà tôi đề xuất với ngài."

Moyennant quoi, vous rentrez en possession immédiate du billet et touchez le million — quitte à me remettre cinq cent mille francs par la voie que je vous indiquerai ultérieurement. «

"Để đổi lấy việc đó, ngài sẽ ngay lập tức nhận được tấm vé và một triệu đồng - và chỉ cần chuyển cho tôi năm trăm ngàn franc theo cách mà tôi sẽ chỉ cho ngài sau này."

En cas de refus, j’ai pris mes dispositions pour que le résultat soit identique.

"Nếu ngài từ chối, tôi đã chuẩn bị để đạt được kết quả tương tự."

Mais, outre les ennuis très graves que vous causerait une telle obstination, vous auriez à subir une retenue de vingt-cinq mille francs pour frais supplémentaires. «

"Nhưng ngoài những rắc rối nghiêm trọng mà sự kiên quyết như vậy sẽ gây ra cho ngài, ngài sẽ phải chịu một khoản phí 25.000 franc cho các chi phí phát sinh."

Veuillez agréer, monsieur, l’expression de mes sentiments les plus respectueux. «

"Kính mong ngài chấp nhận lời chúc tôn trọng nhất của tôi."

Arsène Lupin » Exaspéré, M. Gerbois commit la faute énorme de montrer cette lettre et d’en laisser prendre copie.

Arsène Lupin Tức giận, ông Gerbois đã mắc một sai lầm lớn khi cho người khác xem bức thư này và cho họ sao chép nó.

Son indignation le poussait à toutes les sottises.

Sự tức giận của ông ta đã khiến ông ta làm những điều ngu ngốc.

— Rien ! il n’aura rien ! s’écria-t-il devant l’assemblée des reporters. Partager ce qui m’appartient ? Jamais. Qu’il déchire son billet, s’il le veut !

- Không! Hắn ta sẽ không nhận được gì cả! Hắn ta hét lên trước mặt tất cả các phóng viên. Chia sẻ những gì thuộc về tôi à? Không bao giờ. Hắn ta muốn xé tấm vé à? Hãy xé nó đi!"

— Cependant cinq cent mille francs valent mieux que rien.

- Tuy nhiên, năm trăm ngàn franc vẫn tốt hơn là không có gì cả."

— Il ne s’agit pas de cela, mais de mon droit, et ce droit, je l’établirai devant les tribunaux.

- Vấn đề không phải ở đó, mà là về quyền của tôi, và quyền đó, tôi sẽ thiết lập nó trước tòa án."

— Attaquer Arsène Lupin ? ce serait drôle.

- Tấn công Arsène Lupin à? Thật hài hước."

— Non, mais le Crédit Foncier. Il doit me délivrer le million.

- Không, mà là Crédit Foncier. Họ phải trả cho tôi một triệu franc."

— Contre le dépôt du billet, ou du moins contre la preuve que vous l’avez acheté.

- Để đổi lấy tấm vé, hoặc ít nhất là bằng chứng rằng bạn đã mua nó."

— La preuve existe, puisque Arsène Lupin avoue qu’il a volé le secrétaire.

- Bằng chứng đó tồn tại, vì Arsène Lupin thừa nhận rằng hắn đã trộm người thư ký."

— La parole d’Arsène Lupin suffira-t-elle aux tribunaux ?

- Lời nói của Arsène Lupin liệu có đủ thuyết phục tòa án không?"

— N’importe, je poursuis.

- Dù sao đi nữa, tôi vẫn tiếp tục."

La galerie trépignait.

Đám đông trong phòng xử án rộn ràng bàn tán.

Des paris furent engagés, les uns tenant que Lupin réduirait M. Gerbois, les autres qu’il en serait pour ses menaces.

Một số người đặt cược rằng Lupin sẽ hạ gục M. Gerbois, trong khi những người khác tin rằng hắn sẽ phải chịu hậu quả từ những mối đe dọa của mình.

Et l’on éprouvait une sorte d’appréhension, tellement les forces étaient inégales entre les deux adversaires, l’un si rude dans son assaut, l’autre effaré comme une bête qu’on traque.

Và mọi người đều cảm thấy lo ngại, bởi vì sức mạnh giữa hai bên hoàn toàn không cân bằng. Một bên rất mạnh mẽ trong cuộc tấn công, còn bên kia thì hoảng loạn như một con vật bị săn lùng.

Le vendredi, on s’arracha l’Écho de France, et on scruta fiévreusement la cinquième page à l’endroit des petites annonces. Pas une ligne n’était adressée à M. Ars. Lup. Aux injonctions d’Arsène Lupin, M. Gerbois répondait par le silence. C’était la déclaration de guerre.

Vào thứ Sáu, mọi người tranh nhau mua tờ Écho de France, và nhìn chằm chằm đến trang thông báo nhỏ ở trang 5. Không có một dòng nào dành cho M. Arsène Lupin. M. Gerbois chọn lựa im lặng trước những mối đe dọa của Lupin. Đó là một tuyên bố chiến tranh.

Le soir, on apprenait par les journaux l’enlèvement de Mlle Gerbois.

Vào buổi tối, mọi người biết tin về vụ bắt cóc Mlle Gerbois từ các tờ báo.

Ce qui nous réjouit dans ce qu’on pourrait appeler les spectacles d’Arsène Lupin, c’est le rôle éminemment comique de la police.

Điều thú vị trong những màn trình diễn của Arsène Lupin là vai trò hài hước của cảnh sát.

Tout se passe en dehors d’elle.

Mọi chuyện đều diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của họ.

Il parle, lui, il écrit, prévient, commande, menace, exécute, comme s’il n’existait ni chef de la Sûreté, ni agents, ni commissaires, personne enfin qui pût l’entraver dans ses desseins.

Anh ta nói, anh ta viết, cảnh báo, ra lệnh, đe dọa, hành động, như thể không có chỉ huy cảnh sát, không có cảnh sát, không có ủy viên, không có ai có thể cản trở kế hoạch của anh ta cả.

Tout cela est considéré comme nul et non avenu.

Tất cả những điều đó đều bị coi là vô hiệu lực.

L’obstacle ne compte pas.

Trở ngại không thành vấn đề.

Et pourtant elle se démène, la police ! Dès qu’il s’agit d’Arsène Lupin, du haut en bas de l’échelle, tout le monde prend feu, bouillonne, écume de rage. C’est l’ennemi, et l’ennemi qui vous nargue, vous provoque, vous méprise, ou, qui pis est, vous ignore.

Và tuy nhiên, cảnh sát vẫn hoạt động hết sức! Ngay khi nhắc đến Arsène Lupin, từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất, mọi người đều nổi giận, sôi sục, tức giận. Hắn ta là kẻ thù, và kẻ thù đó đang chế nhạo, khiêu khích, coi thường, hoặc tệ hơn, phớt lờ bạn.

Et que faire contre un pareil ennemi ?

Và phải làm gì với một kẻ thù như vậy?

À dix heures moins vingt, selon le témoignage de la bonne, Suzanne partait de chez elle.

Theo lời khai của người hầu, Suzanne rời nhà lúc 9 giờ 40 phút tối.

À dix heures cinq minutes, en sortant du lycée, son père ne l’apercevait pas sur le trottoir où elle avait coutume de l’attendre.

Lúc 10 giờ 5 phút, khi bố cô rời trường học, anh ta không thấy cô ở trên vỉa hè nơi cô thường chờ đợi anh ta.

Donc tout s’était passé au cours de la petite promenade de vingt minutes qui avait conduit Suzanne de chez elle jusqu’au lycée, ou du moins jusqu’aux abords du lycée.

Vì vậy, mọi chuyện đều diễn ra trong suốt chuyến đi bộ 20 phút từ nhà của Suzanne đến trường học, hoặc ít nhất là gần trường học.

Deux voisins affirmèrent l’avoir croisée à trois cents pas de la maison. Une dame avait vu marcher le long de l’avenue une jeune fille dont le signalement correspondait au sien. Et après ? Après on ne savait pas.

Hai hàng xóm xác nhận họ đã gặp cô ấy cách nhà khoảng 300 bước. Một quý bà nhìn thấy một cô gái trẻ đi dọc theo đại lộ, mô tả trùng với mô tả của Suzanne. Và rồi sao nữa?

On perquisitionna de tous côtés, on interrogea les employés des gares et de l’octroi.

Mọi người lục soát khắp nơi, thẩm vấn nhân viên các nhà ga và cơ quan hải quan.

Ils n’avaient rien remarqué ce jour-là qui pût se rapporter à l’enlèvement d’une jeune fille.

Họ không nhận thấy bất cứ điều gì vào ngày hôm đó liên quan đến vụ bắt cóc một cô gái trẻ.

Cependant, à Ville-d’Avray, un épicier déclara qu’il avait fourni de l’huile à une automobile fermée qui arrivait de Paris.

Tuy nhiên, ở Ville-d’Avray, một người bán hàng tạp hóa cho biết anh ta đã cung cấp dầu cho một chiếc xe hơi đóng kín đến từ Paris.

Sur le siège se tenait un mécanicien, à l’intérieur une dame blonde — excessivement blonde, précisa le témoin.

Trên ghế ngồi là một thợ cơ khí, bên trong là một quý bà tóc vàng - tóc vàng quá mức, theo lời khai của nhân chứng.

Une heure plus tard, l’automobile revenait de Versailles.

Một giờ sau, chiếc xe hơi trở lại từ Versailles.

Un embarras de voiture l’obligea de ralentir, ce qui permit à l’épicier de constater, à côté de la dame blonde déjà entrevue, la présence d’une autre dame, entourée, celle-ci, de châles et de voiles.

Một vụ ách tắc giao thông buộc nó phải chậm lại, cho phép người bán hàng tạp hóa nhận thấy, bên cạnh quý bà tóc vàng mà anh ta đã gặp trước đó, sự hiện diện của một quý bà khác, được bao quanh bởi những chiếc khăn và voile.

Nul doute que ce ne fût Suzanne Gerbois.

Không còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là Suzanne Gerbois.

Mais alors il fallait supposer que l’enlèvement avait eu lieu en plein jour, sur une route très fréquentée, au centre même de la ville !

Nhưng sau đó, chúng ta phải giả định rằng vụ bắt cóc đã diễn ra vào ban ngày, trên một con đường đông đúc, ngay trung tâm thành phố!

Comment ? à quel endroit ? Pas un cri ne fut entendu, pas un mouvement suspect ne fut observé.

Làm thế nào? Tại nơi nào? Không một tiếng kêu cứu nào được nghe thấy, không một cử động đáng ngờ nào được quan sát thấy.

L’épicier donna le signalement de l’automobile, une limousine de 24 chevaux de la maison Peugeon, à carrosserie bleu foncé.

Người bán hàng tạp hóa đã cung cấp thông tin về chiếc xe hơi, một chiếc limousine 24 mã lực của hãng Peugeot, với thân xe màu xanh sẫm.

À tout hasard, on s’informa auprès de la directrice du Grand-Garage, Mme Bob-Walthour, qui s’est fait une spécialité d’enlèvements par automobile.

Vì thế, người ta đã hỏi người quản lý của Grand-Garage, bà Bob-Walthour, một chuyên gia về các vụ bắt cóc bằng xe hơi.

Le vendredi matin, en effet, elle avait loué pour la journée une limousine Peugeon à une dame blonde qu’elle n’avait du reste point revue.

Vào sáng thứ Sáu, thực tế, bà đã thuê một chiếc limousine Peugeot cho một quý bà tóc vàng mà bà không còn nhìn thấy nữa.

— Mais le mécanicien ?

— Nhưng thợ cơ khí thì sao?

— C’était un nommé Ernest, engagé la veille sur la foi d’excellents certificats.

— Đó là một người tên là Ernest, được thuê vào ngày hôm trước dựa trên những giấy chứng nhận tốt.

— Il est ici ?

— Anh ấy ở đây à?

— Non, il a ramené la voiture, et il n’est plus revenu.

— Không, anh ấy đã trả lại chiếc xe và không quay lại nữa.

— Ne pouvons-nous retrouver sa trace ?

— Chúng ta không thể tìm thấy dấu vết của anh ấy sao?

— Certes, auprès des personnes dont il s’est recommandé. Voici leurs noms.

— Chắc chắn rồi, từ những người mà anh ấy đã giới thiệu bản thân với họ. Đây là tên của họ.

On se rendit chez ces personnes. Aucune d’elles ne connaissait le nommé Ernest.

Người ta đã đến nhà những người này. Không một ai trong số họ biết tên Ernest cả.

Ainsi donc, quelque piste que l’on suivît pour sortir des ténèbres, on aboutissait à d’autres ténèbres, à d’autres énigmes.

Vì vậy, dù theo dõi manh mối nào từ bóng tối để thoát khỏi bóng tối, người ta cũng chỉ rơi vào bóng tối và những câu đố khác mà thôi.

M. Gerbois n’était pas de force à soutenir une bataille qui commençait pour lui de façon si désastreuse. Inconsolable depuis la disparition de sa fille, bourrelé de remords, il capitula.

Ông Gerbois không thể chống chịu trong một cuộc chiến mà mới bắt đầu cho ông một cách tồi tệ như vậy. Không thể an ủi kể từ khi con gái mình mất tích, và cảm thấy vô cùng hối tiếc, ông đã bỏ cuộc.

Une petite annonce parue à l’Écho de France, et que tout le monde commenta, affirma sa soumission pure et simple, sans arrière-pensée.

Một thông báo nhỏ xuất hiện trên tờ Écho de France, và được mọi người bình luận, khẳng định sự đầu hàng hoàn toàn, không có ý định ngầm nào cả.

C’était la victoire, la guerre terminée en quatre fois vingt-quatre heures.

Đó là chiến thắng, một cuộc chiến kết thúc trong vòng bốn ngày hai mươi bốn giờ.

Deux jours après, M. Gerbois traversait la cour du Crédit Foncier. Introduit auprès du gouverneur, il tendit le numéro 514-série 23. Le gouverneur sursauta.

Hai ngày sau, ông Gerbois băng qua sân Crédit Foncier. Được giới thiệu với thống đốc, ông đưa ra mã số 514-loạt 23. Thống đốc giật mình.

— Ah ! vous l’avez ? Il vous a été rendu ?

— À! Bạn có nó à? Nó đã được trả lại cho bạn rồi sao?

— Il a été égaré, le voici, répondit M. Gerbois.

— Nó đã bị mất, và giờ thì nó đây, — ông Gerbois trả lời.

— Cependant vous prétendiez... il a été question...

— Tuy nhiên bạn đã tuyên bố... có những tin đồn...

— Tout cela n’est que racontars et mensonges.

— Tất cả chỉ là tin đồn và lời nói dối.

— Mais il nous faudrait tout de même quelque document à l’appui.

— Nhưng chúng tôi vẫn cần một số tài liệu chứng minh.

— La lettre du commandant suffit-elle ?

— Bức thư của chỉ huy có đủ không?

— Certes.

— Chắc chắn rồi.

— La voici.

— Đây nhé.

— Parfait.

— Hoàn hảo.

Veuillez laisser ces pièces en dépôt.

Xin vui lòng giữ những tài liệu này cho chúng tôi.

Il nous est donné quinze jours pour vérification.

Chúng tôi được cho 15 ngày để kiểm tra.

Je vous préviendrai dès que vous pourrez vous présenter à notre caisse.

Tôi sẽ thông báo cho bạn ngay khi bạn có thể đến quầy của chúng tôi.

D’ici là, monsieur, je crois que vous avez tout intérêt à ne rien dire et à terminer cette affaire dans le silence le plus absolu.

Trong thời gian đó, thưa ngài, tôi nghĩ rằng ngài nên không nói bất cứ điều gì và hoàn tất vụ việc này trong sự im lặng tuyệt đối.

— C’est mon intention.

— Đó là ý định của tôi.

M. Gerbois ne parla point, le gouverneur non plus.

Ông Gerbois không nói gì, thống đốc cũng vậy.

Mais il est des secrets qui se dévoilent sans qu’aucune indiscrétion soit commise, et l’on apprit soudain qu’Arsène Lupin avait eu l’audace de renvoyer à M. Gerbois le numéro 514-série 23 !

Nhưng có những bí mật mà không cần phải tiết lộ cũng sẽ bị phát hiện, và đột nhiên người ta biết rằng Arsène Lupin đã dám gửi lại cho ông Gerbois chiếc số 514-loạt 23!

La nouvelle fut accueillie avec une admiration stupéfaite.

Tin này được chào đón với sự ngưỡng mộ kinh ngạc.

Décidément c’était un beau joueur que celui qui jetait sur la table un atout de cette importance, le précieux billet !

Chắc chắn anh ấy là một người chơi tuyệt vời khi đặt một con át chủ bài quan trọng như vậy lên bàn, chiếc vé quý giá đó!

Certes, il ne s’en était dessaisi qu’à bon escient et pour une carte qui rétablissait l’équilibre.

Đúng vậy, anh ấy đã từ bỏ nó một cách khôn ngoan và vì một lá bài giúp lập lại thế cân bằng.

Mais si la jeune fille s’échappait ?

Nhưng nếu cô gái đó trốn thoát thì sao?

Si l’on réussissait à reprendre l’otage qu’il détenait ?

Nếu họ thành công trong việc giải thoát con tin mà anh ta đang giữ thì sao?

La police sentit le point faible de l’ennemi et redoubla d’efforts. Arsène Lupin désarmé, dépouillé par lui-même, pris dans l’engrenage de ses combinaisons, ne touchant pas un traître sou du million convoité... du coup les rieurs passaient dans l’autre camp.

Cảnh sát nhận ra điểm yếu của kẻ thù và tăng cường nỗ lực. Arsène Lupin bị vô hiệu hóa, tự mình từ bỏ, bị mắc kẹt trong các mưu đồ của chính mình, không hề chạm vào một xu nào trong số một triệu đồng mà anh ta thèm muốn... và những kẻ chế nhạo nay đã chuyển sang phe khác.

Mais il fallait retrouver Suzanne. Et on ne la retrouvait pas, et pas davantage, elle ne s’échappait !

Nhưng họ phải tìm thấy Suzanne. Và họ không thể tìm thấy cô ấy, và cũng không thể, cô ấy không trốn thoát!

Soit, disait-on, le point est acquis, Arsène gagne la première manche.

Được rồi, người ta nói, mục tiêu đã đạt được, Arsène thắng ván đầu.

Mais le plus difficile est à faire !

Nhưng phần khó nhất mới bắt đầu!

Mlle Gerbois est entre ses mains, nous l’accordons, et il ne la remettra que contre cinq cent mille francs.

Cô Gerbois đang ở trong tay anh ta, chúng ta thừa nhận điều đó, và anh ta sẽ chỉ trả lại cô ấy với giá 500.000 franc.

Mais où et comment s’opérera l’échange ?

Nhưng việc trao đổi sẽ diễn ra ở đâu và như thế nào?

Pour que cet échange s’opère, il faut qu’il y ait rendez-vous, et alors qui empêche M. Gerbois d’avertir la police et, par là, de reprendre sa fille tout en gardant l’argent ?

Để việc trao đổi diễn ra, họ cần phải có một cuộc hẹn, và vậy thì ai sẽ ngăn cản Mr. Gerbois báo cảnh sát và, theo đó, lấy lại con gái của mình trong khi vẫn giữ tiền?

On interviewa le professeur. Très abattu, désireux de silence, il demeura impénétrable.

Họ phỏng vấn giáo sư. Anh ta rất chán nản, mong muốn được sự im lặng, và vẫn không hề tiết lộ bất cứ thông tin nào.

— Je n’ai rien à dire, j’attends.

- Tôi không có gì để nói, tôi đang chờ đợi.

— Et Mlle Gerbois ?

- Và cô Gerbois thì sao?

— Les recherches continuent.

- Cuộc tìm kiếm vẫn đang tiếp tục.

— Mais Arsène Lupin vous a écrit ?

- Nhưng Arsène Lupin đã viết thư cho bạn à?

— Non.

- Không.

— Vous l’affirmez ?

- Bạn khẳng định vậy à?

— Non.

- Không.

— Donc c’est oui. Quelles sont ses instructions ?

- Vậy thì có rồi. Hướng dẫn của anh ấy là gì?

— Je n’ai rien à dire.

- Tôi không có gì để nói.

On assiégea Me Detinan. Même discrétion.

Họ vây hãm Me Detinan. Ngay cả sự kín đáo cũng không có nữa.

— M. Lupin est mon client, répondait-il avec une affectation de gravité, vous comprendrez que je sois tenu à la réserve la plus absolue.

- Lupin là khách hàng của tôi, ông ta trả lời với vẻ trang trọng, bạn sẽ hiểu tại sao tôi phải giữ bí mật tuyệt đối.

Tous ces mystères irritaient la galerie.

Tất cả những bí ẩn này đã khiến cho các thám tử cảm thấy khó chịu.

Évidemment des plans se tramaient dans l’ombre.

Rõ ràng là có những kế hoạch đang diễn ra trong bóng tối.

Arsène Lupin disposait et resserrait les mailles de ses filets, pendant que la police organisait autour de M. Gerbois une surveillance de jour et de nuit.

Arsène Lupin đang sắp xếp và thắt chặt các mạng lưới của mình, trong khi cảnh sát tổ chức theo dõi M. Gerbois cả ngày lẫn đêm.

Et l’on examinait les trois seuls dénouements possibles : l’arrestation, le triomphe, ou l’avortement ridicule et piteux.

Và họ đang xem xét ba kết thúc có thể: bị bắt, chiến thắng, hoặc thất bại nực cười và đáng tiếc.

Mais il arriva que la curiosité du public ne devait être satisfaite que de façon partielle, et c’est ici dans ces pages que, pour la première fois, l’exacte vérité se trouve révélée.

Nhưng cuối cùng, sự tò mò của công chúng chỉ được thỏa mãn một phần, và đây, trong những trang này, lần đầu tiên, sự thật chính xác được tiết lộ.

Book cover

Le Numéro 514 — Série 23 I.

1.0×

LUÔN BẬT

Cài đặt DiscoVox

Nhấn vào biểu tượng cài đặt ở thanh địa chỉ bên phải, sau đó xác nhận.

Cài đặt ứng dụng

Tham gia trên Discord