Book cover

CÔNG NHẬN

坊っちゃん

Book cover

Read by ekzemplaro for LibriVox in 2013.

親譲りの無鉄砲で小供の時から損ばかりしている。

Tôi đã rất nhút nhát từ khi còn nhỏ, luôn gặp nhiều rắc rối vì sự nhút nhát của mình.

小学校に居る時分学校の二階から飛び降りて一週間ほど腰を抜かした事がある。

Khi còn học tiểu học, tôi đã từng nhảy từ tầng hai của trường học và bị thương ở lưng trong khoảng một tuần.

なぜそんな無闇をしたと聞く人があるかも知れぬ。

Có lẽ một số người sẽ thắc mắc tại sao tôi lại làm một việc ngu ngốc như vậy.

別段深い理由でもない。

Thật ra chẳng có lý do gì sâu sắc cả.

新築の二階から首を出していたら、同級生の一人が冗談に、いくら威張っても、そこから飛び降りる事は出来まい。弱虫やーい。

Nếu tôi đứng ở lan can tầng hai của tòa nhà mới xây dựng và nói rằng “Dù các bạn có chế nhạo tôi đến mức nào, tôi cũng sẽ không dám nhảy từ đó xuống đâu. Các bạn thật hèn nhát!” thì chắc chắn sẽ không có ai tin điều đó cả.

と囃したからである。

Đó chỉ vì tôi đã bị một bạn học trêu chọc như vậy thôi.

小使に負ぶさって帰って来た時、おやじが大きな眼をして二階ぐらいから飛び降りて腰を抜かす奴があるかと云ったから、この次は抜かさずに飛んで見せますと答えた。

Lúc tôi được bố cõng về nhà, bố tôi đã nhìn tôi chằm chằm đầy lo ngại và hỏi rằng “Có ai từng nhảy từ tầng hai xuống không?”, tôi trả lời “Lần sau tôi sẽ không bỏ lỡ cơ hội này”.

親類のものから西洋製のナイフを貰って奇麗な刃を日に翳して、友達に見せていたら、一人が光る事は光るが切れそうもないと云った。切れぬ事があるか、何でも切ってみせると受け合った。そんなら君の指を切ってみろと注文したから、何だ指ぐらいこの通りだと右の手の親指の甲をはすに切り込んだ。幸ナイフが小さいのと、親指の骨が堅かったので、今だに親指は手に付いている。しかし創痕は死ぬまで消えぬ。

Tôi đã nhận được một con dao phương tây từ người thân và khoe khoang với bạn bè về lưỡi dao sắc bén của nó. Một người bạn nói rằng “Nó sắc thật, nhưng có vẻ như không thể cắt bất cứ thứ gì”. Tôi đã thử cắt ngón tay cái của mình và may mắn thay, con dao nhỏ và xương ngón tay cái của tôi rất cứng, nên cho đến nay ngón tay cái vẫn còn nguyên vẹn. Tuy nhiên, vết sẹo sẽ không bao giờ biến mất.

庭を東へ二十歩に行き尽すと、南上がりにいささかばかりの菜園があって、真中に栗の木が一本立っている。

Đi về phía đông hai mươi bước từ vườn, có một khu vườn nhỏ hướng về phía nam, giữa đó là một cái cây hạnh nhân.

これは命より大事な栗だ。

Đó là những quả hạnh nhân quý giá hơn cả mạng sống của tôi.

実の熟する時分は起き抜けに背戸を出て落ちた奴を拾ってきて、学校で食う。

Khi chúng chín, tôi sẽ thức dậy sớm, bước ra hiên và nhặt những quả hạnh nhân rơi xuống. Sau đó, tôi ăn chúng ở trường học.

菜園の西側が山城屋という質屋の庭続きで、この質屋に勘太郎という十三四の倅が居た。

Phía tây của vườn giáp với một cửa hàng cầm đồ tên là Yamashiroya, và con trai mười ba hoặc mười bốn tuổi của chủ cửa hàng tên là Kantaro sống ở đó.

勘太郎は無論弱虫である。

Kantaro chắc chắn là một kẻ hèn nhát.

弱虫の癖に四つ目垣を乗りこえて、栗を盗みにくる。

Mặc dù là một kẻ hèn nhát, nhưng nó vẫn trèo qua hàng rào bốn mặt và trộm hạnh nhân.

ある日の夕方折戸の蔭に隠れて、とうとう勘太郎を捕まえてやった。その時勘太郎は逃げ路を失って、一生懸命に飛びかかってきた。

Một buổi chiều, tôi đã bắt quả tang nó khi nó đang trốn trong bóng tối của cánh cửa và tôi đã bắt được nó. Lúc đó, nó đã mất phương hướng và liều mạng lao vào tôi.

向うは二つばかり年上である。

Nó chỉ hơn tôi hai tuổi.

弱虫だが力は強い。

Mặc dù là một kẻ hèn nhát, nhưng nó lại rất mạnh mẽ.

鉢の開いた頭を、こっちの胸へ宛ててぐいぐい押した拍子に、勘太郎の頭がすべって、おれの袷の袖の中にはいった。

Nó đè mạnh đầu tôi bằng cánh tay mở ra của chiếc áo khoác, và đầu của Kantaro trượt vào tay áo của tôi.

邪魔になって手が使えぬから、無暗に手を振ったら、袖の中にある勘太郎の頭が、右左へぐらぐら靡いた。しまいに苦しがって袖の中から、おれの二の腕へ食い付いた。痛かったから勘太郎を垣根へ押しつけておいて、足搦をかけて向うへ倒してやった。山城屋の地面は菜園より六尺がた低い。勘太郎は四つ目垣を半分崩して、自分の領分へ真逆様に落ちて、ぐうと云った。

Vì tay tôi bị chặn, nên tôi đã vung tay một cách vô ích, và cái đầu của Kantaro trong tay áo tôi bắt đầu lắc lư theo chiều dọc và ngang. Cuối cùng, nó đã cắn vào cánh tay tôi một cách đau đớn và tôi đã đè nó xuống hàng rào và nắm chặt cánh tay nó. Mặt đất của Yamashiroya thấp hơn vườn của tôi sáu feet. Kantaro đã phá vỡ một nửa hàng rào bốn mặt và rơi xuống phía bên kia, và nó nói, "Huh?"

勘太郎が落ちるときに、おれの袷の片袖がもげて、急に手が自由になった。

Khi Kantaro rơi xuống, một tay áo của chiếc áo khoác tôi bị rách, và tôi đã có thể sử dụng tay tự do một cách bất ngờ.

その晩母が山城屋に詫びに行ったついでに袷の片袖も取り返して来た。

Đêm đó, mẹ tôi đã đến Yamashiroya để xin lỗi và cũng lấy lại chiếc áo khoác bị rách đó.

この外いたずらは大分やった。

Trò chơi khăm này thật là tuyệt vời.

大工の兼公と肴屋の角をつれて、茂作の人参畠をあらした事がある。

Tôi đã từng dọa sợ Kantaro cùng với Kenkou, một thợ mộc, và Kaku, một chủ cửa hàng thịt, khi họ đang làm việc trong ruộng cà rốt của Morosaku.

人参の芽が出揃わぬ処へ藁が一面に敷いてあったから、その上で三人が半日相撲をとりつづけに取ったら、人参がみんな踏みつぶされてしまった。

Vì cỏ được rải khắp nơi nơi mà cà rốt chưa mọc lên, nên ba người họ đã đấu súc một nửa ngày trên cỏ đó, và tất cả cà rốt đều bị đè nát.

古川の持っている田圃の井戸を埋めて尻を持ち込まれた事もある。

Còn có một lần, Furukawa đã bị chôn sống và bị mang đi theo cách này.

太い孟宗の節を抜いて、深く埋めた中から水が湧き出て、そこいらの稲にみずがかかる仕掛であった。

Ông ta đã lấy một nhánh cây mận lớn, và nước phun ra từ sâu dưới lòng đất, làm cho lúa trong khu vực đó bị ướt.

その時分はどんな仕掛か知らぬから、石や棒ちぎれをぎゅうぎゅう井戸の中へ挿し込んで、水が出なくなったのを見届けて、うちへ帰って飯を食っていたら、古川が真赤になって怒鳴り込んで来た。

Lúc đó, tôi không biết đó là một cái bẫy, nên tôi đã nhét đá và gậy đầy vào giếng, và khi nước không chảy ra nữa, tôi đã về nhà ăn cơm. Sau đó, Furukawa đã đến nhà tôi và mắng tôi một trận.

たしか罰金を出して済んだようである。

May mắn thay, chỉ bị phạt tiền mà thôi.

おやじはちっともおれを可愛がってくれなかった。母は兄ばかり贔屓にしていた。この兄はやに色が白くって、芝居の真似をして女形になるのが好きだった。おれを見る度にこいつはどうせ碌なものにはならないと、おやじが云った。乱暴で乱暴で行く先が案じられると母が云った。なるほど碌なものにはならない。ご覧の通りの始末である。行く先が案じられたのも無理はない。ただ懲役に行かないで生きているばかりである。

Bố tôi chưa bao giờ thích tôi cả. Mẹ tôi chỉ thích anh trai tôi thôi. Anh ấy trắng trẻo, và thích hóa trang thành phụ nữ khi đóng vở kịch. Mỗi lần nhìn tôi, bố tôi lại nói "Cậu này sẽ không thành gì đâu". Mẹ tôi nói "Cậu này sẽ không thành gì đâu, nhìn cậu đi". Và quả thật, tôi đã không thành công gì cả. Mọi chuyện đều như bố tôi nói. Không có gì ngạc nhiên cả. Và cũng không có gì khó hiểu khi tôi không thành công cả. Tôi chỉ sống sót mà không phải ngồi tù thôi.

母が病気で死ぬ二三日前台所で宙返りをしてへっついの角で肋骨を撲って大いに痛かった。

Vài ngày trước khi mẹ tôi qua đời vì bệnh, tôi đã làm một cú lộ ngược trong bếp, và bị mẹ tôi dùng một cái móc sắc nhọn đánh vào xương sườn, rất đau.

母が大層怒って、お前のようなものの顔は見たくないと云うから、親類へ泊りに行っていた。

Mẹ tôi rất tức giận, và nói "Tôi không muốn nhìn thấy một thằng như cậu nữa", vì vậy tôi đã đến nhà người thân để ở qua đêm.

するととうとう死んだと云う報知が来た。そう早く死ぬとは思わなかった。

Và rồi, tin tức đến rằng mẹ tôi đã mất. Tôi đã không ngờ rằng mẹ tôi sẽ mất sớm như vậy.

そんな大病なら、もう少し大人しくすればよかったと思って帰って来た。そうしたら例の兄がおれを親不孝だ、おれのために、おっかさんが早く死んだんだと云った。

Sau đó, tôi đã trở về nhà và nhận ra rằng anh trai tôi đã nói rằng "Cậu này không tôn trọng bố mẹ mình. Vì cậu, mẹ tôi đã mất sớm".

口惜しかったから、兄の横っ面を張って大変叱られた。

Tôi đã rất tiếc, và liền tát vào mặt anh trai tôi, và bị mắng nặng nề.

母が死んでからは、おやじと兄と三人で暮していた。

Sau khi mẹ tôi mất, chỉ còn bố tôi, anh trai tôi và tôi sống cùng nhau.

おやじは何にもせぬ男で、人の顔さえ見れば貴様は駄目だ駄目だと口癖のように云っていた。

Bố tôi là một người đàn ông không bao giờ tha thứ cho người khác. Mỗi lần nhìn thấy ai, bố tôi lại nói "Cậu này sẽ không thành gì đâu".

何が駄目なんだか今に分らない。

Tôi không hiểu tại sao anh trai tôi lại nói như vậy.

妙なおやじがあったもんだ。

Thật là một người bố kỳ lạ.

兄は実業家になるとか云ってしきりに英語を勉強していた。

Anh trai tôi luôn nói rằng anh ấy muốn trở thành một doanh nhân, và vì vậy anh ấy đã học tiếng Anh rất chăm chỉ.

元来女のような性分で、ずるいから、仲がよくなかった。

Vốn dĩ tôi là một người con gái, nhưng lại rất xảo quyệt, nên chúng tôi không hợp nhau lắm.

十日に一遍ぐらいの割で喧嘩をしていた。

Chúng tôi thường cãi nhau khoảng một lần mỗi mười ngày.

ある時将棋をさしたら卑怯な待駒をして、人が困ると嬉しそうに冷やかした。

Có một lần, khi chúng tôi đang chơi cờ, anh ấy đã chơi một cách hèn nhát, và rồi anh ấy còn cười khúc khích đầy hài lòng khi thấy người khác gặp khó khăn.

あんまり腹が立ったから、手に在った飛車を眉間へ擲きつけてやった。

Tôi tức giận quá, nên đã ném cái búa mà tôi đang cầm vào giữa lông mày của anh ấy.

眉間が割れて少々血が出た。

Lông mày của anh ấy bị vỡ và chảy một chút máu.

兄がおやじに言付けた。

Anh trai tôi đã mắng anh ấy.

おやじがおれを勘当すると言い出した。

Anh ấy nói rằng anh ấy sẽ không quan tâm tới tôi nữa.

その時はもう仕方がないと観念して先方の云う通り勘当されるつもりでいたら、十年来召し使っている清という下女が、泣きながらおやじに詫まって、ようやくおやじの怒りが解けた。

Lúc đó, tôi đã chấp nhận sự thật rằng mình không thể làm gì được, và chuẩn bị chấp nhận quyết định của anh ấy. Nhưng một cô hầu gái tên là Kiyo, người đã phục vụ chúng tôi trong mười năm, đã khóc và xin lỗi anh ấy, và cuối cùng cơn giận dữ của anh ấy đã nguôi dần.

それにもかかわらずあまりおやじを怖いとは思わなかった。

Mặc dù vậy, tôi vẫn không thấy anh ấy thật sự đáng sợ.

かえってこの清と云う下女に気の毒であった。

Thay vào đó, tôi cảm thấy thương hại cho cô hầu gái tên Kiyo này.

この下女はもと由緒のあるものだったそうだが、瓦解のときに零落して、つい奉公までするようになったのだと聞いている。

Cô ấy dường như xuất thân từ một gia đình danh giá, nhưng theo những gì tôi được biết, cô ấy đã bị bỏ rơi khi gia đình tan vỡ, và cuối cùng phải làm việc như một hầu gái.

だから婆さんである。この婆さんがどういう因縁か、おれを非常に可愛がってくれた。不思議なものである。母も死ぬ三日前に愛想をつかした――おやじも年中持て余している――町内では乱暴者の悪太郎と爪弾きをする――このおれを無暗に珍重してくれた。

Vì vậy, bà tôi đã rất thích tôi. Thật là kỳ lạ. Ngay cả mẹ tôi cũng đã thích tôi trong ba ngày trước khi bà qua đời - mặc dù anh tôi luôn cảm thấy không thích tôi lắm - và anh ấy đã đánh nhau với một tên hooligan tên Waraburo trong khu phố - nhưng anh ấy đã thích tôi một cách vô lý như vậy.

おれは到底人に好かれる性でないとあきらめていたから、他人から木の端のように取り扱われるのは何とも思わない、かえってこの清のようにちやほやしてくれるのを不審に考えた。

Tôi đã từ bỏ ý tưởng rằng mình sẽ được người khác thích, vì vậy tôi không thấy phiền lòng khi người khác coi tôi như một mảnh gỗ, nhưng tôi lại thấy kỳ lạ khi một người như Kiyo lại chăm sóc tôi như vậy.

清は時々台所で人の居ない時に「あなたは真っ直でよいご気性だ」と賞める事が時々あった。

Kiyo đôi khi khen ngợi tôi khi không có ai ở trong bếp: "Cậu thật là một chàng trai tốt".

しかしおれには清の云う意味が分からなかった。

Nhưng tôi không hiểu ý của cô ấy.

好い気性なら清以外のものも、もう少し善くしてくれるだろうと思った。

Tôi đã tưởng rằng nếu một người có tính cách tốt, thì người khác cũng sẽ đối xử tốt hơn với họ.

清がこんな事を云う度におれはお世辞は嫌いだと答えるのが常であった。すると婆さんはそれだから好いご気性ですと云っては、嬉しそうにおれの顔を眺めている。

Mỗi lần Kiyo nói như vậy, tôi lại trả lời rằng tôi không thích những lời khen như vậy. Và bà tôi lại nói rằng đó chính là tính cách tốt, và bà vui vẻ nhìn tôi.

自分の力でおれを製造して誇ってるように見える。

Bà dường như tự hào về tôi như thể tôi được tạo ra bởi chính sức mạnh của bà vậy.

少々気味がわるかった。

Điều đó hơi khiến tôi khó chịu.

母が死んでから清はいよいよおれを可愛がった。

Sau khi mẹ tôi mất, Kiyo càng thích tôi hơn.

時々は小供心になぜあんなに可愛がるのかと不審に思った。

Đôi khi tôi tự hỏi tại sao cô ấy lại thích tôi nhiều đến vậy.

つまらない、廃せばいいのにと思った。

Thật nhàm chán, tôi ước gì cô ấy sẽ bỏ tôi một mình thôi.

気の毒だと思った。

Thật khó chịu.

それでも清は可愛がる。

Mặc dù vậy, Kiyo vẫn thích tôi.

折々は自分の小遣いで金鍔や紅梅焼を買ってくれる。

Thỉnh thoảng, cô ấy sẽ mua cho tôi những món đồ nhỏ như mặt dây chuyền hoặc bình hoa từ tiền túi của chính mình.

寒い夜などはひそかに蕎麦粉を仕入れておいて、いつの間にか寝ている枕元へ蕎麦湯を持って来てくれる。

Vào những đêm lạnh, cô ấy sẽ lén mua bột soba và mang đến chỗ đầu giường của tôi khi tôi đang ngủ.

時には鍋焼饂飩さえ買ってくれた。

Đôi khi, cô ấy còn mua cả món phở nước dùng nóng nữa.

ただ食い物ばかりではない。

Không chỉ là đồ ăn thôi.

靴足袋ももらった。

Cô ấy còn tặng cho tôi cả giày đôi và tất nữa.

鉛筆も貰った、帳面も貰った。

Cô ấy cũng tặng cho tôi bút chì và sổ ghi chú nữa.

これはずっと後の事であるが金を三円ばかり貸してくれた事さえある。

Mặc dù vậy, một thời gian sau, cô ấy thậm chí còn cho tôi vay ba yên nữa.

何も貸せと云った訳ではない。

Đó không có nghĩa là cô ấy không cho tôi vay tiền.

向うで部屋へ持って来てお小遣いがなくてお困りでしょう、お使いなさいと云ってくれたんだ。

Cô ấy đã mang tiền đó đến phòng tôi và nói rằng, "Có lẽ anh đang gặp khó khăn về tiền bạc. Hãy sử dụng số tiền này đi."

おれは無論入らないと云ったが、是非使えと云うから、借りておいた。

Tất nhiên, tôi đã từ chối, nhưng cô ấy vẫn khẳng định rằng tôi nên sử dụng số tiền đó, nên tôi đã nhận lấy.

実は大変嬉しかった。

Thành thật mà nói, tôi đã rất vui.

その三円を蝦蟇口へ入れて、懐へ入れたなり便所へ行ったら、すぽりと後架の中へ落してしまった。

Tôi đã cho ba yên đó vào túi tiền, bỏ vào túi áo và đi đến nhà vệ sinh. Nhưng khi tôi đang ở trong nhà vệ sinh, tôi đã vô tình làm rơi số tiền đó xuống cống rãnh.

仕方がないから、のそのそ出てきて実はこれこれだと清に話したところが、清は早速竹の棒を捜して来て、取って上げますと云った。

Tôi đã rất tiếc vì điều đó, nhưng khi tôi trở lại, tôi đã kể lại chuyện đó cho Kiyo nghe. Ngay lập tức, Kiyo đã tìm cái que tre và lấy lại số tiền đó cho tôi.

しばらくすると井戸端でざあざあ音がするから、出てみたら竹の先へ蝦蟇口の紐を引き懸けたのを水で洗っていた。

Một lúc sau, tôi nghe thấy tiếng nước chảy từ miệng giếng, nên tôi đã đi ra ngoài và thấy Kiyo đang rửa sạch dây cài túi tiền bằng nước.

それから口をあけて壱円札を改めたら茶色になって模様が消えかかっていた。

Sau đó, tôi mở túi tiền ra và thấy tờ một yên đã bị hỏng, màu sắc của nó đã phai mờ và các họa tiết trên đó đã mờ dần.

清は火鉢で乾かして、これでいいでしょうと出した。

Kiyo đã sấy khô tờ tiền bằng lò đun và nói rằng, "Đây là tờ tiền tốt rồi."

ちょっとかいでみて臭いやと云ったら、それじゃお出しなさい、取り換えて来て上げますからと、どこでどう胡魔化したか札の代りに銀貨を三円持って来た。

Tôi nhìn vào tờ tiền và nói rằng, "Nó có mùi hôi quá." Kiyo trả lời, "Thế thì hãy đưa nó cho tôi đi. Tôi sẽ đi lấy tờ tiền mới cho anh." Và thế là anh ấy đã mang đến ba yên bằng bạc, thay thế cho tờ tiền bị hỏng.

この三円は何に使ったか忘れてしまった。

Tôi đã quên mất mục đích sử dụng ba yên đó cho đến bây giờ.

今に返すよと云ったぎり、返さない。

Tôi đã nói rằng, "Tôi sẽ trả lại chúng cho anh," nhưng anh ấy đã không trả lại chúng cho tôi.

今となっては十倍にして返してやりたくても返せない。

Bây giờ, dù tôi muốn trả lại cho anh ấy gấp mười lần số tiền đó, tôi cũng không thể làm được nữa.

清が物をくれる時には必ずおやじも兄も居ない時に限る。

Kiyo chỉ cho tôi những món đồ khi không có cha tôi và anh trai tôi ở đó.

おれは何が嫌いだと云って人に隠れて自分だけ得をするほど嫌いな事はない。兄とは無論仲がよくないけれども、兄に隠して清から菓子や色鉛筆を貰いたくはない。

Tôi ghét nhất là lén lấy lợi cho bản thân mà không cho người khác biết. Tất nhiên, tôi không hợp với anh trai tôi lắm, nhưng tôi cũng không muốn lén lấy kẹo hay bút màu từ Kiyo để mang về cho anh ấy.

なぜ、おれ一人にくれて、兄さんには遣らないのかと清に聞く事がある。

Tôi đã từng hỏi Kiyo, "Tại sao anh lại chỉ cho tôi mà không cho anh trai tôi?"

すると清は澄したものでお兄様はお父様が買ってお上げなさるから構いませんと云う。これは不公平である。

Kiyo trả lời, "Anh trai tôi được bố mua tặng cho mà." Điều đó thật không công bằng.

おやじは頑固だけれども、そんな依怙贔負はせぬ男だ。しかし清の眼から見るとそう見えるのだろう。全く愛に溺れていたに違いない。

Cha tôi rất kiên quyết, nhưng anh ấy không hề thiên vị. Nhưng có lẽ trong mắt Kiyo, cha tôi chỉ yêu tôi mà thôi. Chắc chắn rằng ông ấy đã rất yêu thương tôi.

元は身分のあるものでも教育のない婆さんだから仕方がない。

Vốn dĩ, bà tôi là một phụ nữ có địa vị nhưng không có học vấn, nên không thể tránh khỏi những sai lầm như thế này.

単にこればかりではない。

Và không chỉ có vậy thôi.

贔負目は恐ろしいものだ。

Sự thiên vị thật là đáng sợ.

清はおれをもって将来立身出世して立派なものになると思い込んでいた。

Kiyo luôn tin rằng tôi sẽ trở thành một người xuất sắc trong tương lai.

その癖勉強をする兄は色ばかり白くって、とても役には立たないと一人できめてしまった。

Còn anh trai tôi, mặc dù chăm chỉ học tập, nhưng anh ấy chẳng giúp ích gì cho gia đình cả. Tôi thực sự ghét nhất là lén lấy lợi cho bản thân mà không cho người khác biết. Tất nhiên, tôi không hợp với anh trai tôi lắm, nhưng tôi cũng

こんな婆さんに逢っては叶わない。自分の好きなものは必ずえらい人物になって、嫌いなひとはきっと落ち振れるものと信じている。

không thể thay đổi anh ấy. Tôi luôn tin rằng những người tôi thích sẽ trở thành những người vĩ đại, còn những người tôi ghét sẽ thất bại thảm hại.

おれはその時から別段何になると云う了見もなかった。

Và từ lúc đó, tôi cũng không có ý định trở thành một ai đó vĩ đại cả.

しかし清がなるなると云うものだから、やっぱり何かに成れるんだろうと思っていた。

Dù sao thì, vì Kiyo luôn tin rằng tôi sẽ thành công, nên tôi đã luôn tin rằng mình sẽ thành công nữa.

今から考えると馬鹿馬鹿しい。ある時などは清にどんなものになるだろうと聞いてみた事がある。

Bây giờ nhìn lại thì thật ngu ngốc. Có một lần, tôi đã từng hỏi Kiyo rằng anh ấy sẽ trở thành một người như thế nào.

ところが清にも別段の考えもなかったようだ。

Thế nhưng có vẻ như Kiyo cũng không có ý tưởng rõ ràng về điều đó.

ただ手車へ乗って、立派な玄関のある家をこしらえるに相違ないと云った。

Anh ấy chỉ nói rằng anh ấy sẽ lên xe hơi và mua một căn nhà có cửa vào sang trọng thôi.

それから清はおれがうちでも持って独立したら、一所になる気でいた。

Sau đó, Kiyo luôn hy vọng rằng tôi sẽ trở nên độc lập và có một gia đình của riêng mình.

どうか置いて下さいと何遍も繰り返して頼んだ。おれも何だかうちが持てるような気がして、うん置いてやると返事だけはしておいた。

Tôi đã nhiều lần nhắc lại rằng "Hãy để tôi ở nhà mình đi", và tôi cũng cảm thấy mình có thể sẽ sở hữu một căn nhà. Vì vậy, tôi đã trả lời "Được rồi, hãy để tôi ở nhà mình đi".

ところがこの女はなかなか想像の強い女で、あなたはどこがお好き、麹町ですか麻布ですか、お庭へぶらんこをおこしらえ遊ばせ、西洋間は一つでたくさんですなどと勝手な計画を独りで並べていた。

Thế nhưng người phụ nữ này lại rất mạnh mẽ trong suy nghĩ. Cô ấy hỏi tôi rằng "Bạn thích sống ở đâu nhất? Kojimachi à? Asakusa à?", và cô ấy còn tự mình lên kế hoạch cho tôi một cách tùy hứng, chẳng hạn như treo một chiếc võng trong sân nhà, và nói rằng "Có rất nhiều phòng ngủ phương Tây trong một căn nhà lớn".

その時は家なんか欲しくも何ともなかった。

Lúc đó, tôi thậm chí chẳng hề mong muốn sở hữu một căn nhà nào cả.

西洋館も日本建も全く不用であったから、そんなものは欲しくないと、いつでも清に答えた。

Tôi cũng không hề muốn một căn nhà phương Tây hay một căn nhà theo phong cách Nhật Bản. Vì vậy, tôi đã luôn trả lời Kiyo rằng "Tôi không cần những thứ đó".

すると、あなたは欲がすくなくって、心が奇麗だと云ってまた賞めた。清は何と云っても賞めてくれる。

Sau đó, Kiyo lại khen ngợi tôi rằng "Bạn thật tốt bụng và trong sáng", và anh ấy luôn dành những lời khen ngợi cho tôi.

母が死んでから五六年の間はこの状態で暮していた。

Trong khoảng năm, sáu năm sau khi mẹ tôi mất, chúng tôi đã sống trong tình trạng như thế này.

おやじには叱られる。

Bố tôi thường mắng tôi.

兄とは喧嘩をする。

Tôi cũng thường cãi vã với anh trai mình.

清には菓子を貰う、時々賞められる。

Kiyo lại thường tặng tôi những món đồ ngọt, và đôi khi anh ấy cũng khen ngợi tôi. Mẹ tôi mất khoảng năm, sáu năm trước, và chúng tôi đã sống trong tình trạng như thế này trong thời gian đó. Bố tô

別に望みもない。

Tôi không mong muốn gì khác.

これでたくさんだと思っていた。

Tôi đã từng nghĩ rằng như thế này là đủ rồi.

ほかの小供も一概にこんなものだろうと思っていた。

Tôi đã từng nghĩ rằng tất cả những đứa trẻ khác cũng sẽ như thế này thôi.

ただ清が何かにつけて、あなたはお可哀想だ、不仕合だと無暗に云うものだから、それじゃ可哀想で不仕合せなんだろうと思った。

Chỉ là Kiyo thường nói với tôi rằng "Bạn thật tốt bụng và trong sáng", và anh ấy luôn dành những lời khen ngợi cho tôi. Vì vậy, tôi đã từng nghĩ rằng tôi thật sự tốt bụng và trong sáng. Tôi không cảm thấy mình thật sự tốt bụng và trong sáng. Tôi không cảm thấy mình thật

その外に苦になる事は少しもなかった。

Không có gì khó khăn cả.

ただおやじが小遣いをくれないには閉口した。

Chỉ là tôi đã từng phiền lòng vì bố tôi không cho tôi tiền tiêu vô lý.

母が死んでから六年目の正月におやじも卒中で亡くなった。

Và rồi, sáu năm sau khi mẹ tôi mất, bố tôi cũng đã qua đời vì đột quỵ.

その年の四月におれはある私立の中学校を卒業する。六月に兄は商業学校を卒業した。兄は何とか会社の九州の支店に口があって行かなければならん。

Tháng Tư năm đó, tôi đã tốt nghiệp một trường trung học tư thục. Và tháng Sáu, anh tôi đã tốt nghiệp một trường thương mại. Anh tôi phải đến chi nhánh công ty ở Kyushu.

おれは東京でまだ学問をしなければならない。

Còn tôi thì vẫn phải học ở Tokyo.

兄は家を売って財産を片付けて任地へ出立すると云い出した。おれはどうでもするがよかろうと返事をした。

Anh tôi đề nghị bán nhà và dùng số tiền đó để chuẩn bị cho chuyến đi công tác. Tôi đã trả lời rằng tôi không có ý kiến gì về chuyện đó cả.

どうせ兄の厄介になる気はない。

Dù sao thì tôi cũng không muốn làm phiền anh tôi chút nào.

世話をしてくれるにしたところで、喧嘩をするから、向うでも何とか云い出すに極っている。

Dù anh ấy có chăm sóc tôi thì chúng tôi vẫn sẽ cãi nhau, vì vậy tôi đã quyết định không nói gì cả.

なまじい保護を受ければこそ、こんな兄に頭を下げなければならない。

Chỉ vì anh ấy được bảo vệ tốt, nên tôi mới phải nhường nhịn anh ấy như vậy.

牛乳配達をしても食ってられると覚悟をした。

Tôi đã chuẩn bị tâm lý rằng dù có giao sữa thì tôi cũng sẽ bị ăn trộm mất.

兄はそれから道具屋を呼んで来て、先祖代々の瓦落多を二束三文に売った。

Sau đó, anh tôi đã gọi một thợ mộc và bán những viên gạch cổ xưa của gia đình với giá rẻ.

家屋敷はある人の周旋である金満家に譲った。

Anh ấy đã chuyển nhà cho một người tên là Kanman, người này đã giúp anh ấy mua nhà.

この方は大分金になったようだが、詳しい事は一向知らぬ。

Có vẻ như anh ấy đã kiếm được khá nhiều tiền, nhưng tôi không biết chi tiết cụ thể.

おれは一ヶ月以前から、しばらく前途の方向のつくまで神田の小川町へ下宿していた。

Một tháng trước, tôi đã thuê một phòng ở ở Kawaguchi, Shinagawa cho đến khi tôi tìm được một hướng đi rõ ràng hơn cho tương lai của mình.

清は十何年居たうちが人手に渡るのを大いに残念がったが、自分のものでないから、仕様がなかった。あなたがもう少し年をとっていらっしゃれば、ここがご相続が出来ますものをとしきりに口説いていた。

Kiyo rất tiếc khi ngôi nhà mà anh ấy đã sống hơn mười năm bị bán cho người khác, nhưng anh ấy cũng không thể làm gì về điều đó. Anh ấy cứ nói mãi rằng nếu tôi lớn hơn một chút, tôi có thể thừa hưởng nơi này.

もう少し年をとって相続が出来るものなら、今でも相続が出来るはずだ。婆さんは何も知らないから年さえ取れば兄の家がもらえると信じている。

Nếu tôi lớn hơn một chút và có thể thừa hưởng nơi này, thì tôi có thể thừa hưởng nó ngay bây giờ. Bà tôi không biết gì cả, nên bà tin rằng nếu tôi lớn hơn, tôi sẽ thừa hưởng nhà của anh tôi.

兄とおれはかように分れたが、困ったのは清の行く先である。

Anh tôi và tôi đã chia tay như vậy, nhưng phần khó khăn nhất là tìm một nơi để Kiyo có thể đến.

兄は無論連れて行ける身分でなし、清も兄の尻にくっ付いて九州下りまで出掛ける気は毛頭なし、と云ってこの時のおれは四畳半の安下宿に籠って、それすらもいざとなれば直ちに引き払わねばならぬ始末だ。どうする事も出来ん。清に聞いてみた。

Anh tôi tất nhiên không thể mang theo anh ấy, và Kiyo cũng không muốn đi cùng anh tôi đến Kyushu. Vào thời điểm đó, tôi đang ở trong một căn phòng cho thuê rẻ ở Shinagawa, và thậm chí tôi còn không chắc mình sẽ phải rời khỏi nơi đó khi cần thiết. Tôi không thể làm gì cả. Tôi đã hỏi Kiyo về điều đó.

どこかへ奉公でもする気かねと云ったらあなたがおうちを持って、奥さまをお貰いになるまでは、仕方がないから、甥の厄介になりましょうとようやく決心した返事をした。この甥は裁判所の書記でまず今日には差支えなく暮していたから、今までも清に来るなら来いと二三度勧めたのだが、清はたとい下女奉公はしても年来住み馴れた家の方がいいと云って応じなかった。

Anh ấy nói rằng anh ấy không biết liệu mình có thể làm gì khác ngoài việc đi làm cho người khác. Anh ấy nói rằng anh ấy sẽ chăm sóc mẹ anh ấy cho đến khi mẹ anh ấy tìm được một người chồng mới, và rồi anh ấy sẽ trở thành gánh nặng cho cháu trai của mình. Cháu trai này là một thư ký tòa án và hiện đang sống khá thoải mái, vì vậy anh ấy đã khuyên Kiyo nên đến với anh ấy nếu cần thiết, nhưng Kiyo nói rằng dù anh ấy có làm việc cho người khác thì anh ấy vẫn muốn ở trong ngôi

しかし今の場合知らぬ屋敷へ奉公易えをして入らぬ気兼を仕直すより、甥の厄介になる方がましだと思ったのだろう。

Nhưng trong trường hợp này, anh ấy có lẽ nghĩ rằng tốt hơn hết là trở thành gánh nặng cho cháu trai của mình, hơn là phải đối mặt với sự chán ghét của người khác khi làm việc trong một gia đình xa lạ.

それにしても早くうちを持ての、妻を貰えの、来て世話をするのと云う。

Dù sao đi nữa, tôi hy vọng sẽ sớm có một ngôi nhà, một người vợ, và một cuộc sống thoải mái hơn.

親身の甥よりも他人のおれの方が好きなのだろう。

Có lẽ anh ấy thích tôi hơn là người khác.

九州へ立つ二日前兄が下宿へ来て金を六百円出してこれを資本にして商買をするなり、学資にして勉強をするなり、どうでも随意に使うがいい、その代りあとは構わないと云った。

Hai ngày trước khi anh tôi đi Kyushu, anh ấy đã đến nhà trọ của tôi và đưa cho tôi 600 yên, nói rằng tôi có thể sử dụng số tiền này để kinh doanh, hoặc dùng nó như tiền học, hoặc sử dụng nó theo ý muốn của mình. Anh ấy nói rằng anh ấy không quan tâm tới chuyện đó.

兄にしては感心なやり方だ、何の六百円ぐらい貰わんでも困りはせんと思ったが、例に似ぬ淡泊な処置が気に入ったから、礼を云って貰っておいた。

Đây thực sự là một cách làm rất đáng khen của anh tôi. Tôi nghĩ rằng dù anh ấy cho tôi 600 yên thì tôi cũng không gặp khó khăn gì. Tuy nhiên, tôi đã rất cảm động trước sự lãnh đạm như vậy của anh ấy, vì vậy tôi đã cảm ơn anh ấy và nhận số tiền đó.

兄はそれから五十円出してこれをついでに清に渡してくれと云ったから、異議なく引き受けた。

Sau đó, anh ấy đã đưa cho tôi 50 yên và yêu cầu tôi chuyển số tiền đó cho Kiyo, và tôi đã chấp nhận mà không có sự phản đối nào.

二日立って新橋の停車場で分れたぎり兄にはその後一遍も逢わない。

Hai ngày sau, chúng tôi chia tay nhau ở ga Shinagawa, và tôi không gặp lại anh ấy nữa kể từ đó.

おれは六百円の使用法について寝ながら考えた。

Tôi đã suy nghĩ về cách sử dụng 600 yên đó khi tôi đang ngủ.

商買をしたって面倒くさくって旨く出来るものじゃなし、ことに六百円の金で商買らしい商買がやれる訳でもなかろう。よしやれるとしても、今のようじゃ人の前へ出て教育を受けたと威張れないからつまり損になるばかりだ。

Kinh doanh thật là một chuyện rắc rối, và không phải ai cũng làm được tốt. Chắc chắn rằng không thể kiếm được nhiều tiền từ 600 yên này. Cho dù có thể kiếm được thì tôi cũng không thể tự hào về nó vì tôi không thể thể hiện bản thân mình trước mặt người khác sau khi học đại học.

資本などはどうでもいいから、これを学資にして勉強してやろう。

Dù sao thì tôi cũng không quan tâm tới việc sử dụng tiền như một nguồn vốn. Tôi sẽ sử dụng số tiền này để học tập.

六百円を三に割って一年に二百円ずつ使えば三年間は勉強が出来る。三年間一生懸命にやれば何か出来る。

Nếu tôi chia 600 yên thành ba phần và sử dụng 200 yên mỗi năm, tôi sẽ có thể học tập trong ba năm. Nếu tôi học tập chăm chỉ trong ba năm, tôi chắc chắn sẽ có thể đạt được một thứ gì đó.

それからどこの学校へはいろうと考えたが、学問は生来どれもこれも好きでない。

Sau đó, tôi đã suy nghĩ về việc học ở trường nào, nhưng tôi không thích bất kỳ môn học nào từ trước đến nay.

ことに語学とか文学とか云うものは真平ご免だ。

Đặc biệt là những môn như ngôn ngữ và văn học, tôi hoàn toàn không thích chúng.

新体詩などと来ては二十行あるうちで一行も分らない。

Ví dụ như thơ Haiku, tôi không hiểu một dòng nào trong số hai mươi dòng đó.

どうせ嫌いなものなら何をやっても同じ事だと思ったが、幸い物理学校の前を通り掛ったら生徒募集の広告が出ていたから、何も縁だと思って規則書をもらってすぐ入学の手続きをしてしまった。

Dù sao thì tôi cũng không thích những thứ đó, vì vậy tôi đã không làm gì cả. May mắn thay, khi tôi đi qua trường dạy vật lý, tôi đã thấy một quảng cáo tuyển sinh, và tôi đã nhặt tờ quy tắc mà không hề do dự và bắt đầu thủ tục nhập học ngay lập tức.

今考えるとこれも親譲りの無鉄砲から起った失策だ。

Bây giờ nghĩ lại thì đây cũng là một sai lầm do sự bốc đồng của cha tôi mà tôi đã mắc phải.

三年間まあ人並に勉強はしたが別段たちのいい方でもないから、席順はいつでも下から勘定する方が便利であった。しかし不思議なもので、三年立ったらとうとう卒業してしまった。自分でも可笑しいと思ったが苦情を云う訳もないから大人しく卒業しておいた。

Trong ba năm, tôi đã học tập bình thường, nhưng không phải là một học sinh xuất sắc. Vì vậy, thứ tự ngồi luôn là từ dưới lên. Thật ngạc nhiên, sau ba năm, tôi đã tốt nghiệp. Tôi đã tự cười bản thân mình, nhưng không có gì để phàn nàn, nên tôi đã bình tĩnh tốt nghiệp.

卒業してから八日目に校長が呼びに来たから、何か用だろうと思って、出掛けて行ったら、四国辺のある中学校で数学の教師が入る。月給は四十円だが、行ってはどうだという相談である。おれは三年間学問はしたが実を云うと教師になる気も、田舎へ行く考えも何もなかった。もっとも教師以外に何をしようと云うあてもなかったから、この相談を受けた時、行きましょうと即席に返事をした。これも親譲りの無鉄砲が祟ったのである。

Tám ngày sau khi tốt nghiệp, hiệu trưởng đã gọi tôi, và tôi tự hỏi có chuyện gì vậy. Khi tôi đi ra, tôi được bảo rằng tôi sẽ trở thành một giáo viên toán tại một trường trung học ở vùng ngoại ô. Mức lương là 40 yên, nhưng ông ấy hỏi tôi có muốn thử không. Thành thật mà nói, tôi đã không bao giờ muốn trở thành một giáo viên, cũng chẳng bao giờ muốn dạy ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, tôi cũng không biết mình muốn làm gì khác, vì vậy tôi đã đồng ý ngay lập tức. Một lần nữa, sự bốc đồng của cha tôi đã gây ra một sai

引き受けた以上は赴任せねばならぬ。

Vì đã nhận lời, tôi đành phải đến nhận nhiệm vụ.

この三年間は四畳半に蟄居して小言はただの一度も聞いた事がない。

Trong ba năm này, tôi đã ở trong một căn phòng rộng 4,5 tatami và không bao giờ bị chỉ trích một lần nào.

喧嘩もせずに済んだ。

Tôi cũng không đánh nhau với ai.

おれの生涯のうちでは比較的呑気な時節であった。

Đây là một giai đoạn tương đối thanh thản trong cuộc đời tôi.

しかしこうなると四畳半も引き払わなければならん。

Tuy nhiên, giờ đây tôi buộc phải rời bỏ căn phòng này.

生れてから東京以外に踏み出したのは、同級生と一所に鎌倉へ遠足した時ばかりである。

Kể từ khi tôi sinh ra, tôi chưa từng rời khỏi Tokyo ngoại trừ một lần đi dã ngoại với các bạn học đến Kamakura.

今度は鎌倉どころではない。

Lần này thì không phải đến Kamakura nữa.

大変な遠くへ行かねばならぬ。

Tôi sẽ phải đi đến một nơi rất xa xôi.

地図で見ると海浜で針の先ほど小さく見える。

Trên bản đồ, nó chỉ nhỏ bằng một cái kim trên bãi biển.

どうせ碌な所ではあるまい。

Chắc chắn nó không phải là một nơi tốt đẹp gì.

どんな町で、どんな人が住んでるか分らん。分らんでも困らない。心配にはならぬ。

Tôi không biết đó là một thị trấn như thế nào, và những người sống ở đó là những người như thế nào. Dù sao thì tôi cũng không quan tâm.

ただ行くばかりである。

Tôi chỉ cần đi thôi.

もっとも少々面倒臭い。

Dù sao thì cũng hơi phiền toái một chút.

家を畳んでからも清の所へは折々行った。

Sau khi dọn nhà, tôi đã thỉnh thoảng đến nhà của Sei nữa.

清の甥というのは存外結構な人である。おれが行くたびに、居りさえすれば、何くれと款待なしてくれた。清はおれを前へ置いて、いろいろおれの自慢を甥に聞かせた。

Cháu trai của Sei thật sự là một người tốt. Mỗi lần tôi đến, nếu nó có mặt, nó sẽ tiếp đón tôi rất nồng nhiệt. Sei luôn đặt tôi trước mặt mọi người, và kể cho họ nghe về những thành tựu của tôi.

今に学校を卒業すると麹町辺へ屋敷を買って役所へ通うのだなどと吹聴した事もある。

Có những tin đồn rằng sau khi tốt nghiệp trường học, tôi sẽ mua một căn nhà ở Ginza và đi làm cho chính quyền.

独りで極めて一人で喋舌るから、こっちは困まって顔を赤くした。

Vì tôi thích nói chuyện một mình, nên tôi đã rất ngượng ngùng và mặt đỏ bừng lên.

それも一度や二度ではない。

Điều này không chỉ xảy ra một lần hay hai lần.

折々おれが小さい時寝小便をした事まで持ち出すには閉口した。

Thỉnh thoảng, nó còn nhắc lại những chuyện tôi đã làm khi còn nhỏ, như đi cầu ở giường và những chuyện tương tự. Điều đó thật khó chịu.

甥は何と思って清の自慢を聞いていたか分らぬ。

Tôi không biết cháu trai của Sei đã nghe những lời khoe khoang của Sei như thế nào.

ただ清は昔風の女だから、自分とおれの関係を封建時代の主従のように考えていた。

Chỉ là Sei là một phụ nữ theo kiểu cổ, và cô ấy coi mối quan hệ giữa mình và tôi giống như mối quan hệ giữa chủ và thần dân trong thời phong kiến.

自分の主人なら甥のためにも主人に相違ないと合点したものらしい。甥こそいい面の皮だ。

Cô ấy có vẻ tin rằng nếu tôi là chủ của cháu trai thì cháu trai cũng sẽ coi tôi là chủ. Cháu trai thật là một kẻ không biết xấu hổ.

いよいよ約束が極まって、もう立つと云う三日前に清を尋ねたら、北向きの三畳に風邪を引いて寝ていた。

Khi thời hạn hứa hẹn sắp hết, chỉ còn ba ngày nữa là tôi đi, tôi đã hỏi về Sei, nhưng cô ấy đang nằm trong căn phòng hướng bắc, bị cảm lạnh.

おれの来たのを見て起き直るが早いか、坊っちゃんいつ家をお持ちなさいますと聞いた。

Cô ấy tỉnh dậy khi nhìn thấy tôi, nhưng không lâu sau đó, cô ấy lại hỏi tôi khi nào thì cháu trai sẽ chuyển đi khỏi nhà này.

卒業さえすれば金が自然とポッケットの中に湧いて来ると思っている。

Cô ấy nghĩ rằng một khi tốt nghiệp, tiền sẽ tự nhiên chảy vào túi của tôi.

そんなにえらい人をつらまえて、まだ坊っちゃんと呼ぶのはいよいよ馬鹿気ている。

Để một người tài năng như vậy mà vẫn gọi anh ấy là "cháu trai", thật là điên rồ.

おれは単簡に当分うちは持たない。

Tôi đơn giản là không có khả năng nuôi dưỡng anh ấy vào lúc này.

田舎へ行くんだと云ったら、非常に失望した容子で、胡麻塩の鬢の乱れをしきりに撫でた。

Khi tôi nói rằng tôi sẽ đi nông thôn, cô ấy rất thất vọng, và liên tục xoa lớp tóc hỗn loạn của mình.

あまり気の毒だから「行く事は行くがじき帰る。

Thật đáng buồn, tôi đã nói với cô ấy rằng "Tôi sẽ đi, nhưng tôi sẽ trở về ngay lập tức".

来年の夏休みにはきっと帰る」と慰めてやった。

"Tôi chắc chắn sẽ trở về vào kỳ nghỉ hè năm sau", tôi đã an ủi cô ấy như vậy.

それでも妙な顔をしているから「何を見やげに買って来てやろう、何が欲しい」と聞いてみたら「越後の笹飴が食べたい」と云った。

Mặc dù vậy, cô ấy vẫn có vẻ không hài lòng. Tôi đã hỏi cô ấy rằng "Muốn tôi mua gì về cho cô không?", và cô ấy trả lời "Tôi muốn ăn kẹo mè từ Echigo".

越後の笹飴なんて聞いた事もない。

Tôi thậm chí chưa từng nghe nói về kẹo mè từ Echigo.

第一方角が違う。

Đầu tiên, hướng đi của chúng tôi không giống nhau.

「おれの行く田舎には笹飴はなさそうだ」と云って聞かしたら「そんなら、どっちの見当です」と聞き返した。

Khi tôi hỏi cô ấy rằng "Dường như nông thôn mà tôi đến không có kẹo mè", cô ấy lại hỏi tôi "Vậy thì, bạn muốn đi nông thôn nào?".

「西の方だよ」と云うと「箱根のさきですか手前ですか」と問う。

Tôi trả lời "Nông thôn phía tây", và cô ấy hỏi "Là phía bên kia của Hakone, hay là phía này?".

随分持てあました。

Tôi đã khá mệt mỏi với chuyện đó.

出立の日には朝から来て、いろいろ世話をやいた。

Vào ngày tôi rời đi, tôi đã đến từ sáng sớm và chăm sóc cho cô ấy rất nhiều.

来る途中小間物屋で買って来た歯磨と楊子と手拭をズックの革鞄に入れてくれた。

Trên đường đến, tôi đã mua kem đánh răng, một chiếc bàn chải và một chiếc khăn tay tại một cửa hàng nhỏ, và cho tất cả những thứ này vào một chiếc túi da Zuck.

そんな物は入らないと云ってもなかなか承知しない。

Dù tôi đã nói rằng những thứ này không thể bỏ vào túi, nhưng cô ấy vẫn không chịu nghe lời tôi.

車を並べて停車場へ着いて、プラットフォームの上へ出た時、車へ乗り込んだおれの顔をじっと見て「もうお別れになるかも知れません。

Khi chúng tôi xếp thành hàng và đến bến xe, và khi tôi bước lên xe, cô ấy đã nhìn chằm chằm đến khuôn mặt tôi và nói "Có thể chúng ta sẽ không gặp nhau nữa."

随分ご機嫌よう」と小さな声で云った。

Và cô ấy nói nhỏ với tôi "Hãy vui vẻ nhé."

目に涙が一杯たまっている。

Trong mắt tôi đã tràn ngập đầy nước mắt.

おれは泣かなかった。

Tôi đã không khóc.

しかしもう少しで泣くところであった。

Nhưng tôi đã sắp khóc rồi.

汽車がよっぽど動き出してから、もう大丈夫だろうと思って、窓から首を出して、振り向いたら、やっぱり立っていた。何だか大変小さく見えた。

Sau khi tàu bắt đầu chạy, tôi đã nghĩ rằng mọi chuyện ổn rồi, nhưng khi tôi nhìn ra ngoài cửa sổ và quay lại, tôi đã thấy cô ấy vẫn còn đứng ở đó. Cô ấy trông rất nhỏ bé.

Book cover

1.0×

LUÔN BẬT

Cài đặt DiscoVox

Nhấn vào biểu tượng cài đặt ở thanh địa chỉ bên phải, sau đó xác nhận.

Cài đặt ứng dụng

Tham gia trên Discord