八年まえに亡くなった、あの有名な洋画の大家、入江新之助氏の遺家族は皆すこし変っているようである。
Dường như tất cả các thành viên trong gia đình của nhà sản xuất phim nổi tiếng Shinzo Irie, người đã qua đời tám năm trước, đều có chút kỳ lạ.
いや、変調子というのではなく、案外そのような暮しかたのほうが正しいので、かえって私ども一般の家庭のほうこそ変調子になっているのかも知れないが、とにかく、入江の家の空気は、普通の家のそれとは少し違っているようである。
Không phải là họ kỳ lạ theo nghĩa tiêu cực, mà có lẽ cách sống của họ mới là bình thường, còn chúng ta thì mới là những người kỳ lạ. Dù sao đi nữa, bầu không khí trong gia đình Irie có vẻ hơi khác với những gia đình bình thường.
この家庭の空気から暗示を得て、私は、よほど前に一つの短篇小説を創ってみた事がある。
Lấy cảm hứng từ bầu không khí trong gia đình này, tôi đã từng viết một truyện ngắn từ lâu về nó.
私は不流行の作家なので、創った作品を、すぐに雑誌に載せてもらう事も出来ず、その短篇小説も永い間、私の机の引き出しの底にしまわれたままであったのである。
Là một nhà văn không được ưa chuộng, tôi không thể dễ dàng xuất bản tác phẩm của mình trên các tạp chí, và truyện ngắn này cũng bị chôn vùi trong ngăn kéo bàn làm việc của tôi trong khoảng thời gian dài.
その他にも、私には三つ、四つ、そういう未発表のままの、謂わば筐底深く秘めたる作品があったので、おととしの早春、それらを一纏めにして、いきなり単行本として出版したのである。
Ngoài ra, tôi còn có ba, bốn tác phẩm chưa được xuất bản, những tác phẩm mà tôi đã giấu kín trong nhiều năm. Vào đầu năm ngoái, tôi đã tập hợp chúng lại và xuất bản thành một cuốn sách riêng lẻ mà không hề báo trước.
まずしい創作集ではあったが、私には、いまでも多少の愛着があるのである。
Đó là một tập truyện tầm thường, nhưng cho đến nay, tôi vẫn cảm thấy có chút tình cảm dành cho nó.
なぜなら、その創作集の中の作品は、一様に甘く、何の野心も持たず、ひどく楽しげに書かれているからである。
Đó là bởi vì tất cả các tác phẩm trong tập truyện này đều rất ngọt ngào, không có bất kỳ tham vọng nào, và được viết một cách vui vẻ.
いわゆる力作は、何だかぎくしゃくして、あとで作者自身が読みかえしてみると、いやな気がしたり等するものであるが、気楽な小曲には、そんな事が無いのである。
Những tác phẩm lớn thường rất khó hiểu, và sau này khi tác giả đọc lại chúng, họ có thể cảm thấy không hài lòng về chúng. Nhưng những truyện ngắn vui nhộn như thế này thì không có vấn đề gì cả.
れいに依って、その創作集も、あまり売れなかったようであるが、私は別段その事を残念にも思っていない。
Đúng thế, tập truyện này cũng không bán chạy lắm, nhưng tôi không hề tiếc về điều đó.
売れなくて、よかったとさえ思っている。
Tôi thậm chí còn cảm thấy vui mừng vì nó không bán chạy.
愛着は感じていても、その作品集の内容を、最上質のものとは思っていないからである。
Bởi vì tôi không cho rằng nội dung của tập truyện này là tuyệt vời nhất.
冷厳の鑑賞には、とても堪えられる代物ではないのである。
Nó không thể chịu được sự đánh giá khắc nghiệt của những nhà phê bình.
謂わば、だらしない作品ばかりなのである。
Đó chỉ là những tác phẩm tầm thường mà thôi.
けれども、作者の愛着は、また自ら別のものらしく、私は時折、その甘ったるい創作集を、こっそり机上に開いて読んでいる事もあるのである。
Tuy nhiên, tình cảm của tác giả dường như khác với tôi. Thỉnh thoảng, tôi cũng lén mở tập truyện ngọt ngào này ra đọc trên bàn làm việc của mình.
その創作集の中でも、最も軽薄で、しかも一ばん作者に愛されている作品は、すなわち、冒頭に於いて述べた入江新之助氏の遺家族から暗示を得たところの短篇小説であるというわけなのである。
Trong tập truyện này, tác phẩm nhẹ nhõm nhất, và cũng là tác phẩm được tác giả yêu thích nhất, đó là một truyện ngắn lấy cảm hứng từ gia đình của Irie Shinnosuke, như tôi đã đề cập ở phần đầu.
もとより軽薄な、たわいの無い小説ではあるが、どういうわけだか、私には忘れられない。
Đó là một truyện ngắn tầm thường, không có gì đặc sắc cả, nhưng không biết tại sao, tôi lại không thể quên nó được.
――兄妹、五人あって、みんなロマンスが好きだった。
――Gia đình chúng tôi có năm anh chị em, và tất cả chúng tôi đều thích thể loại lãng mạn.
長男は二十九歳。
Con trai cả 29 tuổi rồi.
法学士である。ひとに接するとき、少し尊大ぶる悪癖があるけれども、これは彼自身の弱さを庇う鬼の面であって、まことは弱く、とても優しい。
Anh ấy là một luật sư. Khi gặp người khác, anh ấy có chút kiêu ngạo, nhưng đó chỉ là cách anh ấy che đậy những điểm yếu của bản thân mà thôi. Thực ra, anh ấy rất yếu và rất tốt bụng.
弟妹たちと映画を見にいって、これは駄作だ、愚作だと言いながら、その映画のさむらいの義理人情にまいって、まず、まっさきに泣いてしまうのは、いつも、この長兄である。
Khi xem phim cùng các em, dù họ nói rằng đó là một bộ phim tồi tệ, ngu ngốc, nhưng người khóc nhất, sớm nhất, luôn là anh cả này.
それにきまっていた。
Điều đó chắc chắn rồi.
映画館を出てからは、急に尊大に、むっと不機嫌になって、みちみち一言も口をきかない。
Sau khi rời khỏi rạp chiếu phim, anh ấy lập tức trở nên kiêu ngạo, cáu gắt, và không nói một lời nào cả.
生れて、いまだ一度も嘘言というものをついた事が無いと、躊躇せず公言している。
Anh ấy không chần chừ tuyên bố rằng, từ khi sinh ra đến nay, anh ấy chưa từng nói dối ai cả.
それは、どうかと思われるけれど、しかし、剛直、潔白の一面は、たしかに具有していた。
Điều đó có vẻ không thể tin được, nhưng thực sự, anh ấy có một mặt thẳng thắn, trong sạch.
学校の成績はあまりよくなかった。
Thành tích học tập của anh ấy không tốt lắm.
卒業後は、どこへも勤めず、固く一家を守っている。
Sau khi tốt nghiệp, anh ấy không làm việc ở bất kì nơi đâu, mà chỉ chăm chỉ bảo vệ gia đình mình thôi.
イプセンを研究している。
Anh ấy đang nghiên cứu về Ibsen.
このごろ「人形の家」をまた読み返し、重大な発見をして、頗る興奮した。
Gần đây, anh ấy đã đọc lại "Ngôi nhà của búp bê", và có một số phát hiện quan trọng, và anh ấy rất phấn khích về điều đó.
ノラが、あのとき恋をしていた。
Nora, lúc đó, cô ấy đã yêu.
お医者のランクに恋をしていたのだ。
Cô ấy đã yêu một bác sĩ.
それを発見した。弟妹たちを呼び集めてそのところを指摘し、大声叱咤、説明に努力したが、徒労であった。
Anh ấy đã phát hiện ra điều đó. Anh ấy đã gọi tất cả anh chị em mình lại, chỉ ra điều đó, và mắng họ thật lớn, cố gắng giải thích, nhưng tất cả đều vô ích.
弟妹たちは、どうだか、と首をかしげて、にやにや笑っているだけで、一向に興奮の色を示さぬ。
Anh chị em mình chỉ nhún vai, cười khúc khích đầy mỉa mai, và không hề thể hiện bất kì sự phấn khích nào.
いったいに弟妹たちは、この兄を甘く見ている。
Thật ra, anh chị em mình chẳng coi trọng anh này chút nào.
なめている風がある。
Có vẻ như họ đang trêu chọc anh ấy.
長女は、二十六歳。
Cô con gái cả, 26 tuổi.
いまだ嫁がず、鉄道省に通勤している。
Cô ấy vẫn chưa kết hôn, và đang làm việc tại Bộ Đường sắt.
フランス語が、かなりよく出来た。
Cô ấy thông thạo tiếng Pháp khá tốt.
背丈が、五尺三寸あった。
Chiều cao của cô ấy là 1,60m.
すごく、痩せている。
Cô ấy rất gầy.
弟妹たちに、馬、と呼ばれる事がある。
Anh chị em mình thường gọi cô ấy là "Con ngựa".
髪を短く切って、ロイド眼鏡をかけている。
Cô ấy cắt tóc ngắn, và đeo kính Lloyd.
心が派手で、誰とでもすぐ友達になり、一生懸命に奉仕して、捨てられる。それが、趣味である。
Tính cách của cô ấy rất nổi bật, cô ấy dễ dàng kết bạn với bất kỳ ai, phục vụ họ hết mình, và rồi bị bỏ rơi. Đó là sở thích của cô ấy.
憂愁、寂寥の感を、ひそかに楽しむのである。
Cô ấy thích lặng lẽ tận hưởng cảm giác buồn phiền và cô độc.
けれどもいちど、同じ課に勤務している若い官吏に夢中になり、そうして、やはり捨てられた時には、その時だけは、流石に、しんからげっそりして、間の悪さもあり、肺が悪くなったと嘘をついて、一週間も寝て、それから頸に繃帯を巻いて、やたらに咳をしながら、お医者に見せに行ったら、レントゲンで精細にしらべられ、稀に見る頑強の肺臓であるといって医者にほめられた。
Tuy nhiên, có một lần, cô ấy đã say mê một quan chức trẻ trong cùng một phòng ban, và khi bị bỏ rơi, cô ấy đã rất thất vọng. Cô ấy đã nói dối bị bệnh phổi và nằm trên giường suốt một tuần, sau đó quấn vòng cổ và ho không ngừng. Khi đến bác sĩ, phổi của cô ấy được chụp X-quang rất chi tiết, và bác sĩ khen ngợi rằng phổi của cô ấy rất mạnh mẽ.
文学鑑賞は、本格的であった。
Việc đánh giá văn học của cô ấy rất chuyên sâu.
実によく読む。
Cô ấy thực sự đọc rất nhiều.
洋の東西を問わない。
Dù là văn học phương Tây hay phương Đông, cô ấy đều thích thú.
ちから余って自分でも何やら、こっそり書いている。
Cô ấy cũng viết một số bài thơ, mặc dù không phải là một nhà văn xuất sắc.
それは本箱の右の引き出しに隠して在る。
Những bài thơ này được cất giấu trong ngăn kéo bên phải của hộp sách.
逝去二年後に発表のこと、と書き認められた紙片が、その蓄積された作品の上に、きちんと載せられているのである。
Hai năm sau khi cô ấy qua đời, một tờ giấy được viết và ký tên, trong đó nói rằng những tác phẩm tập hợp này sẽ được công bố, đã được xếp ngay ngắn trên những tác phẩm này.
二年後が、十年後と書き改められたり、二ヶ月後と書き直されたり、ときには、百年後、となっていたりするのである。
Đôi khi, ngày công bố được viết lại thành hai năm sau, hoặc hai tháng sau, hoặc thậm chí là một trăm năm sau.
次男は、二十四歳。
Con trai thứ hai của cô ấy 24 tuổi.
これは、俗物であった。
Đây thực sự là một người phụ nữ thế tục.
帝大の医学部に在籍。けれども、あまり学校へは行かなかった。
Cô ấy theo học tại khoa Y của Đại học Hoàng gia, nhưng không thường xuyên đến trường.
からだが弱いのである。
Vì sức khỏe của cô ấy không tốt lắm.
これは、ほんものの病人である。
Đây thực sự là một bệnh nhân thực sự.
おどろくほど、美しい顔をしていた。
Khuôn mặt của cô ấy thật đẹp, một cách đáng ngạc nhiên.
吝嗇である。
Cô ấy rất keo kiệt.
長兄が、ひとにだまされて、モンテエニュの使ったラケットと称する、へんてつもない古いラケットを五十円に値切って買って来て、得々としていた時など、次男は、陰でひとり、余りの痛憤に、大熱を発した。
Khi anh trai cô bị lừa mua một cái vợt cũ kỳ lạ từ Monte-Carlo với giá 50 yên, anh ta còn cười vui vẻ về điều đó. Lúc đó, con trai thứ hai của cô ấy đã bị sốt nặng vì tức giận một mình trong bí mật.
その熱のために、とうとう腎臓をわるくした。
Vì cơn sốt đó, thận của anh ấy đã bị tổn hại nghiêm trọng.
ひとを、どんなひとをも、蔑視したがる傾向が在る。
Anh ấy có xu hướng khinh thường tất cả mọi người.
ひとが何かいうと、けッという奇怪な、からす天狗の笑い声に似た不愉快きわまる笑い声を発するのである。
Khi người khác nói gì đó, anh ấy sẽ phát ra những tiếng cười khó chịu, giống như tiếng cười kỳ quặc của một con quạ.
ゲエテ一点張りである。
Anh ấy rất kiên định về ý kiến của mình.
これとても、ゲエテの素朴な詩精神に敬服しているのではなく、ゲエテの高位高官に傾倒しているらしい、ふしが、無いでもない。
Điều này không phải là do sự tôn trọng tinh thần thơ mộc của Goethe, mà có vẻ như anh ấy chỉ ngưỡng mộ vị trí cao cả của Goethe mà thôi, mặc dù anh ấy không hề thừa nhận điều này.
あやしいものである。
Thật là kỳ lạ.
けれども、兄妹みんなで、即興の詩など競作する場合には、いつでも一ばんである。
Tuy nhiên, khi tất cả anh chị em cùng nhau sáng tác những bài thơ ngẫu hứng, anh ấy luôn là người giỏi nhất.
出来ている。
Anh ấy thật tài năng.
俗物だけに、謂わば情熱の客観的把握が、はっきりしている。
Đáng tiếc, sự nhận thức khách quan về niềm đam mê của anh ấy lại rất rõ ràng.
自身その気で精進すれば、あるいは二流の作家くらいには、なれるかも知れない。
Nếu anh ấy thực sự cố gắng, có lẽ anh ấy sẽ trở thành một nhà văn hạng hai.
この家の、足のわるい十七の女中に、死ぬほど好かれている。
Cô gái mười bảy tuổi ở nhà này, mặc dù không xinh đẹp lắm, nhưng anh ấy lại rất yêu mến cô ấy.
次女は、二十一歳。ナルシッサスである。
Em gái thứ hai, hai mươi một tuổi, là một người rất kiêu ngạo.
ある新聞社が、ミス・日本を募っていた時、あの時には、よほど自己推薦しようかと、三夜身悶えした。
Khi một tờ báo tìm kiếm Hoa hậu Nhật Bản, anh ấy đã suýt tự đề cử bản thân mình trong ba đêm liền.
大声あげて、わめき散らしたかった。
Anh ấy thật sự muốn hét lên và phàn nàn về điều đó.
けれども、三夜の身悶えの果、自分の身長が足りない事に気がつき、断念した。
Tuy nhiên, sau ba đêm suy nghĩ, anh ấy nhận ra chiều cao của mình không phù hợp với tiêu chuẩn, và anh ấy đã từ bỏ ý định này.
兄妹のうちで、ひとり目立って小さかった。四尺七寸である。
Trong số các anh chị em, anh ấy là người nhỏ nhất. Chiều cao của anh ấy chỉ đạt 4'7".
けれども、決して、みっともないものではなかった。
Dù sao thì anh ấy cũng không hề xấu xí.
なかなかである。
Điều đó thật khó khăn.
深夜、裸形で鏡に向い、にっと可愛く微笑してみたり、ふっくらした白い両足を、ヘチマコロンで洗って、その指先にそっと自身で接吻して、うっとり眼をつぶってみたり、いちど鼻の先に、針で突いたような小さい吹出物して、憂鬱のあまり、自殺を計った事がある。
Vào lúc nửa đêm, anh ấy đã nhìn vào gương trần truồng, mỉm cười thật dễ thương, rửa hai chân trắng mềm của mình bằng xà phòng, nhẹ nhàng hôn vào ngón tay của chính mình, và nhắm mắt lại trong sự mê đắm. Có một lần, anh ấy đã cố tự tử vì trầm cảm, bằng cách tự đâm một vết nhỏ ở mũi của mình bằng một cái kim.
読書の撰定に特色がある。
Anh ấy cũng có những ý tưởng độc đáo về việc đọc sách.
明治初年の、佳人之奇遇、経国美談などを、古本屋から捜して来て、ひとりで、くすくす笑いながら読んでいる。黒岩涙香、森田思軒などの飜訳をも、好んで読む。
Anh ấy đã tìm kiếm những cuốn sách cổ về những câu chuyện tình yêu và những câu chuyện về các nhà lãnh đạo quốc gia từ thời kỳ Meiji đầu tiên, và thích thú đọc chúng một mình. Anh ấy cũng thích những bản dịch của Kuroiwa Ryohan và Morita Shoken.
どこから手に入れて来るのか、名の知れぬ同人雑誌をたくさん集めて、面白いなあ、うまいなあ、と真顔で呟きながら、端から端まで、たんねんに読破している。
Anh ấy đã thu thập được rất nhiều tạp chí vô danh từ các cửa hàng sách cũ, và thầm thì những lời khen ngợi như "Thật thú vị", "Thật tuyệt", và chăm chú đọc từng trang một.
ほんとうは、鏡花をひそかに、最も愛読していた。
Thực ra, anh ấy bí mật yêu thích nhất chính là Miruka.
末弟は、十八歳である。
Em út của anh ấy 18 tuổi.
ことし一高の、理科甲類に入学したばかりである。高等学校へはいってから、かれの態度が俄然かわった。
Anh ấy mới vào học lớp A, khoa Khoa học tại trường trung học năm nay. Kể từ khi vào trường trung học, thái độ của anh ấy đã thay đổi đáng kể.
兄たち、姉たちには、それが可笑しくてならない。
Các anh chị em của anh ấy đều cảm thấy điều đó thật hài hước.
けれども末弟は、大まじめである。
Tuy nhiên, em út của anh ấy lại rất nghiêm túc.
家庭内のどんなささやかな紛争にでも、必ず末弟は、ぬっと顔を出し、たのまれもせぬのに思案深げに審判を下して、これには、母をはじめ一家中、閉口している。いきおい末弟は一家中から敬遠の形である。末弟には、それが不満でならない。
Trong mọi cuộc xung đột nhỏ trong gia đình, em út luôn lên tiếng và phán xét một cách sâu sắc mà không cần ai yêu cầu. Cả mẹ anh ấy và tất cả các thành viên trong gia đình đều không thể nói được gì. Vì vậy, em út bị mọi người trong gia đình tránh xa. Điều này khiến em út rất không hài lòng.
長女は、かれのぶっとふくれた不機嫌の顔を見かねて、ひとりでは大人になった気でいても、誰も大人と見ぬぞかなしき、という和歌を一首つくって末弟に与えかれの在野遺賢の無聊をなぐさめてやった。
Chị cả của anh ấy đã thấy khó chịu với vẻ mặt không vui vẻ của em út, và mặc dù chị ấy đã trưởng thành, nhưng không ai coi chị ấy là người lớn cả. Vì vậy, chị ấy đã sáng tác một bài thơ Haiku về sự buồn chán của em út và tặng nó cho em út để anh ấy cảm thấy vui vẻ hơn.
顔が熊の子のようで、愛くるしいので、きょうだいたちが、何かとかれにかまいすぎて、それがために、かれは多少おっちょこちょいのところがある。
Em út trông giống như một chú gấu con, rất dễ thương. Vì vậy, tất cả mọi người trong gia đình đều quá mức chú ý đến em ấy, và điều đó khiến em ấy có chút hư hỏng.
探偵小説を好む。
Em ấy thích tiểu thuyết trinh thám.
ときどきひとり部屋の中で、変装してみたりなどしている。
Thỉnh thoảng, em ấy còn thử mặc quần áo khác nhau trong phòng một mình.
語学の勉強と称して、和文対訳のドイルのものを買って来て、和文のところばかり読んでいる。
Em ấy mua một cuốn sách dịch từ tiếng Anh sang tiếng Nhật của Doyle và chỉ đọc phần tiếng Nhật, và nói rằng đó là để học ngôn ngữ.
きょうだい中で、家のことを心配しているのは自分だけだと、ひそかに悲壮の感に打たれている。――
Em ấy cảm thấy buồn khi nhận ra mình là người duy nhất trong số các anh chị em lo lắng về chuyện gia đình.
以上が、その短篇小説の冒頭の文章であって、それから、ささやかな事件が、わずかに展開するという仕組みになっていたのであるが、それは、もとよりたわいの無い作品であった事は前にも述べた。
Trên đây là những câu mở đầu của truyện ngắn này. Cốt truyện sau đó sẽ phát triển từ những sự kiện nhỏ nhặt, nhưng như đã nói trước đó, tác phẩm này không có nội dung gì quan trọng cả.
私の愛着は、その作品に対してよりも、その作中の家族に対してのほうが強いのである。
Tình cảm của tôi đối với tác phẩm này thậm chí còn mãnh liệt hơn đối với gia đình trong tác phẩm này.
私は、あの家庭全体を好きであった。
Tôi thích cả gia đình ấy.
たしかに、実在の家庭であった。
Đúng vậy, đó là một gia đình có thật.
すなわち、故人、入江新之助氏の遺家族のスケッチに違いないのである。
Đó chắc chắn là bản phác thảo về gia đình của cố nhân Niijima Shinzo-san.
もっとも、それは必ずしも事実そのままの叙述ではなかった。
Tuy nhiên, nó không phải lúc nào cũng là một bản tường thuật chính xác về thực tế.
大げさな言いかたで、自分でも少からず狼狽しながら申し上げるのであるが、謂わば、詩と真実以外のものは、適度に整理して叙述した、というわけなのである。
Nói một cách hơi khoe khoang, tôi cũng cảm thấy bối rối khi nói về nó, nhưng có lẽ nó chỉ là một bản tường thuật về thơ và sự thật, được sắp xếp và mô tả một cách hợp lý.
ところどころに、大嘘をさえ、まぜている。
Thậm chí, nó còn có những lời nói dối lớn.
けれども、大体は、あの入江の家庭の姿を、写したものだ。
Tuy nhiên, nhìn chung, nó vẫn phản ánh chân thực hình ảnh của gia đình Niijima ấy.
一毛に於いて差異はあっても、九牛に於いては、リアルであるというわけなのだ。
Dù có những chi tiết khác nhau, nhưng tổng thể thì nó vẫn rất thực tế.
もっとも私は、あの短篇小説に於いて、兄妹五人と、それから優しく賢明な御母堂に就いてだけ書いたばかりで、祖父ならびに祖母の事は、作品構成の都合上、無礼千万にも割愛してしまっているのである。
Tuy nhiên, trong truyện ngắn này, tôi chỉ viết về năm anh chị em và một người mẹ tốt bụng. Về ông bà tôi, do lý do liên quan đến cấu trúc tác phẩm, tôi đã không thể miêu tả họ một cách chân thực, và điều này thật sự rất đáng tiếc.
これは、たしかに不当なる処置であった。
Đây thực sự là một cách làm không phù hợp.
入江の家を語るのに、その祖父、祖母を除外しては、やはり、どうしても不完全のようである。
Để kể về gia đình Niijima mà không đề cập đến ông bà của họ thì có vẻ như thiếu sót một cái gì đó rất quan trọng.
私は、いまはそのお二人に就いても語って置きたいのである。
Vì vậy, tôi muốn nói về hai người này ngay bây giờ.
そのまえに一つお断りしなければならない事がある。
Trước khi bắt đầu, có một điều mà tôi cần phải nói trước.
それは、私の之からの叙述の全部は、現在ことしの、入江の家の姿ではなく、四年前に私がひそかに短篇小説に取りいれたその時の入江の家の雰囲気に他ならないという一事である。いまの入江家は、少し違っている。
Đó là tất cả những mô tả của tôi không phải là hình ảnh hiện tại của gia đình Niijima, mà là bầu không khí của gia đình này vào bốn năm trước, khi tôi lén lút viết một truyện ngắn về họ. Hiện tại, gia đình Niijima đã thay đổi một chút.
結婚した人もある。
Một số người đã kết hôn.
亡くなられた人さえある。
Thậm chí còn có người đã qua đời.
四年以前にくらべて、いささか暗くなっているようである。
So với bốn năm trước, gia đình này có vẻ trầm mặc hơn một chút.
そうして私も、いまは入江の家に、昔ほど気楽に遊びに行けなくなってしまった。
Và tôi cũng không thể đến thăm gia đình Niijima thường xuyên như trước nữa.
つまり、五人の兄妹も、また私も、みんなが少しずつ大人になってしまって、礼儀も正しく、よそよそしく、いわゆる、あの「社会人」というものになった様子で、お互い、たまに逢っても、ちっとも面白くないのである。
Đó là bởi vì cả năm anh chị em, kể cả tôi, đều trưởng thành hơn, lịch sự hơn, xa cách hơn, và trở thành những "người trưởng thành" theo đúng nghĩa của từ này. Vì vậy, mỗi lần chúng tôi gặp nhau, chúng tôi không còn cảm thấy thú vị nữa.
はっきり言えば、現在の入江家は、私にとって、あまり興味がないのである。
Nói một cách rõ ràng, gia đình Niijima hiện tại không hấp dẫn lắm đối với tôi.
書くならば、四年前の入江家を書きたいのである。
Nếu tôi phải viết, tôi sẽ viết về gia đình Niijima bốn năm trước.
それゆえ、私の之から叙述するのも、四年前の入江の家の姿である。現在は、少し違っている。
Vì vậy, những mô tả của tôi cũng sẽ là hình ảnh của gia đình Niijima bốn năm trước. Hiện tại, mọi thứ đã thay đổi một chút.
それだけをお断りして置いて、さて、その頃の祖父は、――毎日、何もせずに遊んでばかりいたようである。
Tôi chỉ muốn nói rằng, vào thời điểm đó, tổ phụ của tôi - dường như chẳng làm gì khác ngoài việc chơi cả ngày.
もし入江の家系に、非凡な浪曼の血が流れているとしたならば、それは、此の祖父から、はじまったものではないかと思われる。
Nếu trong gia đình Niijima có dòng máu lãng mạn phi thường, thì có lẽ nó bắt đầu từ ông tổ phụ này.
もはや八十を過ぎている。
Ông ấy đã hơn tám mươi tuổi rồi.
毎日、用事ありげに、麹町の自宅の裏門から、そそくさと出掛ける。
Mỗi ngày, ông ấy lặng lẽ đi ra từ cửa sau của ngôi nhà ở Kojima, với vẻ như đi làm một chuyện gì đó, nhưng thực ra chẳng làm gì cả.
実に素早い。
Ông ấy thật nhanh nhẹn.
この祖父は、壮年の頃は横浜で、かなりの貿易商を営んでいたのである。
Khi còn trẻ, ông ấy đã là một thương nhân khá thành đạt tại Yokohama.
令息の故新之助氏が、美術学校へ入学した時にも、少しも反対せぬばかりか、かえって身辺の者に誇ってさえいたというほどの豪傑である。
Ông ấy còn là một người rất dũng cảm, thậm chí còn tự hào về con trai mình, Shinnosuke, khi cậu ấy ghi danh vào trường mỹ thuật, mà không hề phản đối gì cả.
としとって隠居してからでも、なかなか家にじっとしてはいない。
Ngay cả sau khi ông ấy về ẩn, thì ông ấy cũng không ở nhà mãi mãi.
家人のすきを覗っては、ひらりと身をひるがえして裏門から脱出する。
Ông ấy lén nhìn vào những hoạt động của các thành viên gia đình, rồi nhanh chóng rời khỏi nhà thông qua cửa sau.
すたすた二、三丁歩いて、うしろを振り返り、家人が誰もついて来ないという事を見とどけてから、懐中より鳥打帽をひょいと取出して、あみだにかぶるのである。
Ông ấy bỏ ra một vài bước chân nhanh nhẹn, quay đầu lại, và thấy rằng không có ai theo dõi cả. Ông ấy lấy ra một chiếc mũ có vành từ túi áo, và đeo nó lên đầu.
派手な格子縞の鳥打帽であるが、ひどく古びている。
Đó là một chiếc mũ có vành sọc đầy màu sắc, nhưng nó đã rất cũ kỹ rồi.
けれども、これをかぶらないと散歩の気分が出ないのである。
Tuy nhiên, ông ấy không thể đi dạo nếu không đeo chiếc mũ này.
四十年間、愛用している。
Ông ấy đã sử dụng nó trong suốt bốn mươi năm qua.
これをかぶって、銀座に出る。
Ông ấy đeo chiếc mũ này và đi ra Ginza.
資生堂へはいって、ショコラというものを注文する。ショコラ一ぱいに、一時間も二時間も、ねばっている。
Ông ấy đi vào Shiseido, và yêu cầu được một món sô cô la. Sau đó, ông ấy ngồi chờ đợi món sô cô la này trong một hoặc hai tiếng đồng hồ.
あちら、こちらを見渡し、むかしの商売仲間が若い芸妓などを連れて現れると、たちまち大声で呼び掛け、放すものでない。無理矢理、自分のボックスに坐らせて、ゆるゆると厭味を言い出す。
Ông ấy nhìn quanh, và khi thấy những người bạn cũ trong kinh doanh xuất hiện cùng với những geisha trẻ, ông ấy lập tức gọi họ lại và không cho họ đi. Ông ấy cưỡng bức họ ngồi vào khu vực riêng của mình, và phàn nàn về họ một cách không hài lòng.
これが、怺えられぬ楽しみである。
Đây thực sự là một niềm vui mà không thể chịu đựng được.
家へ帰る時には、必ず、誰かに僅かなお土産を買って行く。やはり、気がひけるのである。
Khi trở về nhà, ông ấy luôn mua một vài món quà nhỏ cho ai đó. Tất nhiên, ông ấy cảm thấy hơi xấu hổ về điều đó.
このごろは、めっきり又、家族の御機嫌を伺うようになった。
Gần đây, ông ấy lại bắt đầu chú ý hơn đến sức khỏe của gia đình mình.
勲章を発明した。
Ông ấy đã phát minh ra huân chương.
メキシコの銀貨に穴をあけて赤い絹紐を通し、家族に於いて、その一週間もっとも功労のあったものに、之を贈呈するという案である。
Ông ấy dự định khoan một cái lỗ vào đồng xu bạc Mexico, và chuyển qua một sợi dây lụa đỏ, sau đó tặng nó cho thành viên trong gia đình có thành tích xuất sắc nhất trong tuần.
誰も、あまり欲しがらなかった。
Không có ai thực sự muốn nhận món quà đó.
その勲章をもらったが最後、その一週間は、家に在るとき必ず胸に吊り下げていなければいけないというのであるから、家族ひとしく閉口している。
Sau cùng, người nhận được huân chương này phải mang nó ở cổ trong cả tuần, vì vậy, tất cả mọi người trong gia đình đều giữ im lặng.
母は、舅に孝行であるから、それをもらっても、ありがたそうな顔をして、帯の上に、それでもなるべく目立たないように吊り下げる。祖父の晩酌のビイルを一本多くした時には、母は、いや応なしに、この勲章をその場で授与されてしまうのである。
Mẹ ông ấy rất biết ơn và treo huân chương ở vị trí không dễ nhìn thấy trên thắt lưng. Khi ông ấy mang thêm một chai bia cho ông nội, mẹ ông ấy lập tức trao huân chương cho ông ấy ngay tại chỗ.
長兄も、真面目な性質であるから、たまに祖父の寄席のお伴の功などで、うっかり授与されてしまう事があっても、それでも流石に悪びれず、一週間、胸にちゃんと吊り下げている。
Anh trai cả của ông ấy cũng rất nghiêm túc. Ngay cả khi ông ấy vô tình nhận được huân chương vì những công hiến trong bữa tiệc của ông nội, ông ấy vẫn không cảm thấy xấu hổ và luôn mang nó ở cổ trong cả tuần.
長女、次男は、逃げ廻っている。
Chị cả và em trai thì lúc nào cũng trốn tránh.
長女は、私にはとてもその資格がありませんからと固辞して利巧に逃げている。
Chị cả từ chối nhận huân chương và nhanh chóng trốn khỏi nhà. Em trai thì chạy trốn khắp nơi.
殊に次男は、その勲章を自分の引出しにしまい込んで、落したと嘘をついた事さえある。祖父は、たちまち次男の嘘を看破し、次女に命じて、次男の部屋を捜査させた。
Em trai thậm chí còn nói dối rằng mình đánh mất huân chương và bị ông nội phát hiện ngay lập tức. Sau đó, ông nội yêu cầu chị cả kiểm tra phòng của em trai.
次女は、運わるくそのメダルを発見したので、こんどは、次女に贈呈された。
May mắn thay, chị cả đã tìm thấy huân chương và lần này, nó được trao cho chị cả.
祖父は、この次女を偏愛している様子がある。次女は、一家中で最もたかぶり、少しの功も無いのに、それでも祖父は、何かというと此の次女に勲章を贈呈したがるのである。次女は、その勲章をもらうと、たいてい自分の財布の中に入れて置く。
Ông nội dường như có chút thiên vị đối với chị cả. Chị cả là người tự phụ nhất trong gia đình. Mặc dù không có bất kỳ công hiến nào, nhưng ông nội vẫn luôn muốn trao huân chương cho chị cả. Chị cả thường cho huân chương vào ví của mình.
祖父は、次女にだけは、そんな除外例を許可するのである。
Ông nội chỉ dành sự ưu ái như vậy đối với chị cả mà thôi.
胸に吊り下げずとも、いいのである。
Dù không treo huân chương trên cổ thì cũng không sao cả.
一家中で、多少でも、その勲章を欲しいと思っているのは、末弟だけである。
Trong gia đình, chỉ có em út là người mong muốn được nhận huân chương nhất.
末弟も流石にそれを授与されて胸に吊り下げられると、何だか恥ずかしくて落ちつかない気がするのだけれど、それを取り上げられて誰か他の人に渡される時には、ふっと淋しくなるのである。
Em út cũng cảm thấy ngượng ngùng khi nhận được huân chương và treo nó lên cổ, nhưng lại cảm thấy buồn khi nhìn thấy người khác mang nó trên cổ.
次女の留守に、次女の部屋へこっそりはいっていって財布を捜し出し、その中のメダルを懐しそうに眺めている時もある。
Có những lúc, khi chị cả không có mặt, em út đã lén vào phòng chị cả để tìm kiếm ví và ngắm nhìn huân chương một cách thích thú.
祖母は、この勲章を一度も授与された事が無い。
Bà nội chưa từng nhận được huân chương nào cả.
はじめから、きっぱり拒否しているのである。
Bà đã thẳng thắn từ chối ngay từ đầu.
ひどく、はっきりした人なのである。
Bà là một người rất kiên quyết.
ばからしい、と言っている。
Bà nói rằng điều đó thật xấu hổ.
この祖母は、末弟を目にいれても痛くないほど可愛がっている。末弟が一時、催眠術の研究をはじめて、祖父、母、兄たち姉たち、みんなにその術をかけてみても誰も一向にかからない。
Bà nội thật sự yêu quý em út đến mức không cảm thấy đau lòng khi nhìn thấy em ấy. Một lần, em út bắt đầu nghiên cứu về thôi miên và cố gắng thôi miên ông nội, mẹ, anh trai, chị em gái, nhưng không ai bị thôi miên cả.
みんな、きょろきょろしている。
Mọi người vẫn hoàn toàn tỉnh táo.
大笑いになった。末弟ひとり泣きべそかいて、汗を流し、最後に祖母へかけてみたら、たちまちにかかった。
Tất cả mọi người đều cười lớn. Chỉ mình em út khóc nức nở, lau mồ hôi, và cuối cùng thử thôi miên bà nội, nhưng bà nội lập tức bị thôi miên ngay lập tức.
祖母は椅子に腰かけて、こくりこくりと眠りはじめ、術者のおごそかな問いに、無心に答えるのである。
Bà nội ngồi xuống ghế và bắt đầu ngủ say, trả lời những câu hỏi của người thôi miên một cách vô thức.
「おばあさん、花が見えるでしょう?」
"Bà ơi, bà có thể nhìn thấy những bông hoa, phải không?"
「ああ、綺麗だね。」
"Ồ, chúng thật xinh đẹp."
「なんの花ですか?」
"Đó là những bông hoa gì vậy?"
「れんげだよ。」
"Đó là những bông hoa lan."
「おばあさん、一ばん好きなものは何ですか?」
"Bà ơi, thứ mà bà yêu thích nhất là gì vậy?"
「おまえだよ。」
"Chính là cháu này."
術者は、少し興覚めた。
Người thôi miên cảm thấy hơi thất vọng.
「おまえというのは、誰ですか?」
"Cháu này là ai vậy?"
「和夫(末弟の名)じゃないか。」
"Chẳng phải là Wahfu (tên em út) sao?"
傍で拝見していた家族のものが、どっと笑い出したので、祖母は覚醒した。それでも、まず、術者の面目は、保ち得たのである。とにかく祖母だけは、術にかかったのだから。でも、あとで真面目な長兄が、おばあさん、本当にかかったのですか、とこっそり心配そうに尋ねたとき、祖母は、ふんと笑って、かかるものかね、と呟いた。
Các thành viên gia đình đang theo dõi từ bên cạnh bỗng nhiên cười lớn, và bà ngoại tỉnh táo trở lại. Dù sao thì chỉ có bà ngoại là người bị thôi miên. Nhưng sau đó, người anh cả nghiêm túc hỏi: "Bà ơi, bà thực sự bị thôi miên à?", bà ngoại chỉ cười nhẹ và thì thầm: "Có lẽ vậy."
以上が、入江家の人たち全部のだいたいの素描である。
Đó là bức tranh tổng thể về tất cả các thành viên trong gia đình Irie.
もっと、くわしく紹介したいのであるが、いまは、それよりも、この家族全部で連作した一つの可成り長い「小説」を、お知らせしたいのである。
Tôi đã muốn giới thiệu chi tiết hơn, nhưng hiện tại, tôi muốn thông báo cho các bạn về một "cuốn tiểu thuyết" khá dài mà toàn bộ gia đình này đã tham gia viết.
入江の家の兄妹たちは、みんな、多少ずつ文芸の趣味を持っている事は前にも言って置いた。
Như tôi đã đề cập trước đó, tất cả anh chị em trong gia đình Irie đều có chút sở thích về văn học.
かれらは時々、物語の連作をはじめる事がある。
Họ thỉnh thoảng bắt đầu viết những câu chuyện liên tiếp.
たいてい、曇天の日曜などに、兄妹五人、客間に集っておそろしく退屈して来ると、長兄の発案で、はじめるのである。ひとりが、思いつくままに勝手な人物を登場させて、それから順々に、その人物の運命やら何やらを捏造していって、ついに一篇の物語を創造するという遊戯である。
Thông thường, vào những ngày Chủ nhật nắng mờ, năm anh chị em tụ họp trong phòng khách và cảm thấy rất buồn chán. Lúc đó, người anh cả sẽ đề xuất bắt đầu một trò chơi. Một người sẽ tự do tạo ra một nhân vật, và sau đó, từng người một sẽ phát minh số phận của nhân vật đó, và cuối cùng, tạo ra một câu chuyện.
簡単にすみそうな物語なら、その場で順々に口で言って片附けてしまうのであるが、発端から大いに面白そうな時には、大事をとって、順々に原稿用紙に書いて廻すことにしている。
Nếu câu chuyện đơn giản, họ sẽ kể nó ngay tại chỗ, nhưng nếu câu chuyện đầy hứng thú, họ sẽ chăm chú viết nó xuống giấy, từng câu một.
そのような、かれら五人の合作の「小説」が、すでに四、五篇も、たまっている筈である。
Chắc chắn, có khoảng bốn đến năm câu chuyện được viết chung bởi năm anh chị em này.
たまには、祖父、祖母、母もお手伝いする事になっている。
Thỉnh thoảng, ông nội, bà nội, và mẹ cũng sẽ tham gia giúp đỡ.
このたびの、やや長い物語にも、やはり、祖父、祖母、母のお手伝いが在るようである。
Câu chuyện dài này lần này cũng có sự trợ giúp của ông nội, bà nội, và mẹ.

その一