Handelsagenten Fågelsång satt på Turisthotellets terrass i Marstrand och tittade på havet, när två brunbrända flickebarn, det ena i blått, det andra i vitt, kommo som en solglimt i tristessen och satte sig vid närmaste bord.
Đại lý thương mại Fågelsång đang ngồi trên sân thượng của khách sạn Turisthotel tại Marstrand, nhìn ra biển, thì hai cô gái da rám nắng, một mặc áo màu xanh, một mặc áo màu trắng, bất ngờ xuất hiện như tia nắng giữa sự trầm mặc, và ngồi xuống bàn gần nhất.
Den ena var ljus och klotrund, den andra svart och smäcker, och handelsagenten Fågelsång rycktes omedelbart från sin beundran av havets skönhet till en ännu större beundran av den smäckra.
Một cô gái sáng chói đầy sức sống, một cô gái mang vẻ đen tối và quyến rũ. Ngay lập tức, đại lý thương mại Fågelsång chuyển từ sự ngưỡng mộ vẻ đẹp của biển sang sự ngưỡng mộ lớn hơn đối với vẻ đẹp quyến rũ này.
Hans blick gled smekande från det vita floret, som hon virat kring håret för blåstens skull ned till de vita skorna, och så snart hon slagit sig ned inriktade han hela sin energi på att inleda en enklare ögonkurtis.
Ánh mắt của ông lướt nhẹ nhàng từ bông hoa trắng mà cô gái quấn quanh mái tóc vì gió, xuống đôi giày đen, và ngay khi cô gái ngồi xuống, ông tập trung toàn bộ năng lượng của mình vào việc bắt đầu một cuộc trò chuyện đơn giản.
Ett ögonblick mötte flickebarnet hans blick, kallt och främmande, men när så Fågelsång vågade sig på aningen av ett småleende, vände hon sig plötsligt bort, och började med livligt intresse observera en yngling av urbefolkningen, som nere vid kajen högljutt och med klagande röst meddelade att Putte var hans ögonsten.
Trong giây lát, cô gái nhìn vào ánh mắt của ông, lạnh lùng và xa cách, nhưng khi Fågelsång dám mỉm cười nhẹ nhàng, cô bỗng nhiên quay đi, và bắt đầu quan sát một chàng trai bản địa với sự quan tâm sống động, anh ta đang ở dưới cầu cảng, lớn tiếng và phàn nàn rằng Putte là viên ngọc quý của anh ta.
Fågelsång ägnade hon inte vidare en blick.
Fågelsång không hề liếc nhìn cô gái nữa.
»Det var mig en liten hårdflirtad satunge!» tänkte Fågelsång för sig själv, och försökte genom en diskret hostning åter fånga flickebarnets uppmärksamhet.
"Đúng là một cô gái nhỏ quyến rũ nhỉ!" Fågelsång tự nghĩ, và cố gắng bằng một tiếng ho khẽ để thu hút sự chú ý của cô gái một lần nữa.
Men förgäves.
Nhưng vô ích.
Detta irriterade Fågelsång. Han ansåg sig äga ett fördelaktigt utseende, och uppfattade denna likgiltighet som en direkt personlig förolämpning.
Điều đó khiến Fågelsång phiền lòng. Ông cho rằng mình có một vẻ ngoài ưa nhìn, và coi sự thờ ơ này là một sự xúc phạm cá nhân trực tiếp.
Inte ens när musiken spelade upp Cavalleria, och Fågelsång fullt hörbart gnolade: »Min vita li-hilja» blev det något resultat av.
Thậm chí khi âm nhạc chơi bài Cavalleria, và Fågelsång hát to: "My white li-hila", cũng không có kết quả gì.
Den vita liljan låtsades som om handelsagenten Fågelsång alls inte existerade, och när hon och hennes blå väninna druckit sitt kaffe och ätit sina bakelser försvunno de från Fågelsångs horisont lika hastigt som de kommit.
Bông hoa trắng giả vờ như không hề tồn tại người đại lý thương mại Fågelsång, và khi cô gái và người bạn da màu của cô uống cà phê và ăn bánh kẹo, họ biến mất khỏi tầm nhìn của Fågelsång nhanh như khi họ xuất hiện.
Men dagen därpå fick Fågelsång återse henne.
Nhưng ngày hôm sau, Fågelsång được gặp lại cô ấy.
Det var på Strandpromenaden, där hon flanerade ensam i solskenet, vitklädd som förut, och med ett svart band om livet, och som Fågelsång var en modig man, steg han helt lugnt fram och bad att få göra sällskap.
Đó là ở Strandpromenaden, nơi cô ấy đang đi dạo một mình dưới áng mặt trời, mặc trang phục màu trắng như trước, và với một dải ruy băng màu đen quanh eo, và vì Fågelsång là một người đàn ông dũng cảm, anh ta bình tĩnh bước tới và yêu cầu được tham gia cùng cô ấy.
Fågelsång hade aldrig trott att det kunde finnas så mycket kyla mitt i sommaren som den med vilken han blev mottagen, men när han sade sitt namn sken flickebarnet upp.
Fågelsång chưa bao giờ nghĩ rằng có thể có sự lạnh lùng như vậy giữa mùa hè, nhưng khi anh ta nói tên mình, cô gái sáng lên một chút.
»Ett sådant lustigt namn», sade hon, och visade en rad vita tänder och ett par kindgropar, som kommo Fågelsång att kippa efter andan.
"Một cái tên thật hài hước", cô nói, và lộ ra một hàng răng trắng và một vài nếp nhăn má, khiến Fågelsång phải thở hổn hển.
»Det är ett vackert namn», svarade Fågelsång övertygande. »Det har jag hittat på själv. Förut hette jag Petrusson.»
"Đó là một cái tên đẹp", Fågelsång trả lời một cách thuyết phục. "Tôi đã tự nghĩ ra nó. Trước đây tên tôi là Petrusson."
»Då undrar jag inte på, att herr Fågelkvitter bytte!» sade den sköna.
"Vậy thì tôi không ngạc nhiên khi ông Fågelkvitter thay đổi tên!", người phụ nữ xinh đẹp nói.
»Fågelsång!» rättade handelsagenten. »Men fröken har inte sagt vad fröken heter.»
"Fågelsång!", người đại lý thương mại nhắc lại. "Nhưng cô chưa nói tên của cô là gì."
»Hm! Jag brukar verkligen inte stifta bekantskap så här sans façon, men jag antar, att det skulle vara ohövligt att inte nu säga mitt namn. Jag heter Lingonhjelm.»
"Hm! Tôi thường không làm quen với mọi người một cách vô tổ chức như thế này, nhưng tôi đoán rằng sẽ thô lỗ nếu không nói tên tôi bây giờ. Tên tôi là Lingonhjelm."
Det klack till i Fågelsång, ty han hyste, i gemen med hela släkten Petrusson, en djup vördnad för ridderskapet och adeln. Han nästan ångrade att han tilltalat flickebarnet, och funderade på att dra sig ur spelet fortast möjligt då detta plötsligt omintetgjordes av flickan själv, som sade:
Fågelsång giật mình, vì anh ta, cũng như toàn bộ gia đình Petrusson, đầy sự tôn trọng đối với tầng lớp quý tộc và giới quý tộc. Anh ta gần như hối tiếc vì đã nói chuyện với cô gái, và nghĩ sẽ rút khỏi cuộc trò chuyện càng sớm càng tốt, nhưng điều đó bị ngắt lời bởi chính cô gái, khi cô nói:
»Det är ju, som sagt, inte fullt comme il faut. Men om ni följer med hem och blir presenterad i familjen, så är ju allt korrekt, eller hur?»
"Đúng là, như tôi đã nói, không hoàn toàn đúng mực. Nhưng nếu bạn đi về nhà và được giới thiệu với gia đình, thì mọi thứ sẽ hoàn toàn đúng mực, phải không nào?"
»Jo visst, jo visst!» svarade Fågelsång litet nervöst.
"Chắc chắn rồi, chắc chắn rồi!", Fågelsång trả lời một cách hơi lo lắng.
»Då gå vi genast», svarade flickebarnet, och Fågelsång larvade med.
"Vậy thì chúng ta sẽ đi ngay", cô gái trả lời, và Fågelsång đi theo.
För resten visste han med sig, att han var fin nog att uppträda var som helst.
Trong phần còn lại, anh ta biết rằng mình đủ tốt để hành xử ở bất kỳ nơi đâu.
Han hade vita skor och gredelina strumpor, vita byxor, grå rock, blå skjorta, grön halsduk och panama med band i de franska färgerna, och som han dessutom hade en nackbena, som allvarligt strävade att nå ned till vekryggen ansåg han, att ingenting brast i hans utstyrsel.
Anh ta có giày đen và tất màu trắng, quần trắng, áo khoác màu xám, áo sơ mi màu xanh, khăn quàng cổ màu xanh lá cây và mũ Panama với dải ruy băng màu Pháp, và vì anh ta còn có một cái cổ họng dài, cố gắng hết sức để chạm tới lưng cong của mình, anh ta cho rằng không có gì sai sót trong trang phục của mình.
Tio minuter senare befann han sig i den villa, där flickebarnet bodde under sommaren, och föreställdes för en ståtlig och vänlig gammal herre.
Mười phút sau, anh ta ở trong biệt thự nơi cô gái sống vào mùa hè, và được giới thiệu với một quý ông lịch lãm và thân thiện.
»Min far, landshövding Lingonhjelm!» presenterade flickan, och Fågelsång skakade hand, djupt gripen av stundens allvar.
"Bố tôi, thống đốc Lingonhjelm!", cô gái giới thiệu, và Fågelsång bắt tay, bị ấn tượng sâu sắc bởi sự trang trọng của khoảnh khắc này.
Handelsagenten Fågelsång hade aldrig kunnat drömma om, att han i hela sitt liv skulle få träffa något så högt uppsatt som en landshövding, och han fann denna ärofulla upplevelse allt annat än angenäm.
Đại lý thương mại Fågelsång chưa bao giờ mơ tới việc, trong suốt cuộc đời mình, anh ta sẽ gặp một người có chức vụ cao cao như một thống đốc, và anh ta thấy trải nghiệm đầy vinh dự này không hề dễ chịu chút nào.
Men hans vita lilja tycktes i stället vara vid alldeles briljant humör, tog honom med sig ut på en balkong, satte honom på yttersta kanten av en korgstol — att få honom att sitta ordentligt gick inte — och såg till att han fick whisky och vatten.
Nhưng hoa lily trắng của anh ta dường như ở trong một tâm trạng rất tuyệt vời, đưa anh ta ra ban công, đặt anh ta ở mép ngoài của một chiếc ghế đẩu - để anh ta ngồi thẳng là không thể - và đảm bảo rằng anh ta được cung cấp rượu whisky và nước.
Se’n kom landshövdingen, som visade sig vara en trevlig karl, om också Fågelsång ibland hade litet svårt att följa med hans konversation, och ungefär samtidigt försvann flickebarnet en stund.
Rồi thống đốc đến, hóa ra là một người đàn ông dễ thương, mặc dù Fågelsång đôi khi gặp khó khăn trong việc theo dõi cuộc trò chuyện của ông ấy, và đúng lúc đó, cô gái biến mất một lúc.
Fågelsång hörde hur det pinglade i telefonen, så kom hon tillbaka i ett lynne, som tycktes vara ännu mera strålande än förut.
Fågelsång nghe thấy tiếng chuông điện thoại reo, rồi cô quay trở lại, dường như còn rạng rỡ hơn trước đó.
Snart nog lämnade landshövdingen dem och Fågelsång andades lättare när han blev ensam med flickan.
Chẳng bao lâu, thống đốc rời khỏi họ, và Fågelsång thở phào nhẹ nhõm khi ở một mình với cô gái.
»Trevlig gubbe, er farsa», sade han i sin elegantaste sällskapston. »Men jag känner mig alltid lite haj när jag är tillsammans med såna där pampiga jyckar.»
"Ông bố của cô thật là một người đàn ông tuyệt vời", anh ta nói bằng giọng lịch lãm nhất của mình. "Nhưng tôi luôn cảm thấy hơi sợ khi ở bên những kẻ quyền lực như vậy."
»Brukar ni vara det ofta då?» frågade flickan oskyldigt.
"Ông thường như vậy à?", cô gái hỏi vô tội. 十分钟后,他来到了那个女孩夏天住的别墅里,被介绍给一位体面而友善的老人。 “我父亲,林格霍尔姆州长!”女孩介绍道,福格松握了握手,深深地被这一刻的庄重所打动。 这位商务代理从未想过,在他的一生中会遇到像州长这样地位高的人,他觉得这种荣幸的经历一点也不愉快。 但这位白衣少女似乎情绪极佳,把他带到阳台上,让他坐在摇椅的最边缘——让他好好坐下是不可能的——还
Fågelsång kände att han rodnade.
Fågelsång cảm thấy mình đang đỏ mặt.
»Hm! Ja! Inte precis var dag, men ofta nog. Jag — jag rör mig naturligtvis endast i de allra bästa kretsar.»
“Hả! Vâng! Không phải mỗi ngày, nhưng thường xuyên. Tôi - tất nhiên chỉ hoạt động trong những môi trường tốt nhất.”
»Naturligtvis!» instämde flickan. »Det märks ju på herr Fågelsångs nobla uppträdande. Ledigt och otvunget — hallå, flickor, välkomna upp!»
“Đương nhiên!”, cô gái nhất trí. “Điều đó thể hiện rõ trong cách cư xử cao quý của anh Fågelsång. Đơn giản và không cố gắng quá nhiều - Này, các cô gái, lên đây nhé!”
Det sista var riktat till ett par unga damer, som kommo fram emot villan.
Câu cuối cùng nhắm vào một vài quý cô trẻ tuổi đang tiến về phía biệt thự.
Fröken Lingonhjelm föreställde:
Cô Lingonhjelm tưởng tượng:
»Herr Fågelsång, fröken Sabelkrona, baronesse von Erbingen. Baronessan är hovfröken hos hennes furstliga höghet arvprinsessan av Sachsen-Braunschweig, som just nu är här i Marstrand, som ni vet.»
“Ông Fågelsång, cô Sabelkrona, nữ nam tước von Erbingen. Nữ nam tước này là thị nữ cho chủ nhân cao quý của cô, công chúa thừa kế của Sachsen-Braunschweig, người hiện đang ở Marstrand, như các bạn biết đấy.”
Fågelsång bugade djupt.
Fågelsång cúi chào sâu sắc.
»Nä, de hade jag inte hört!» svarade han, och började konversera damerna. Men han avbröts av baronessan, som på bruten svenska meddelade värdinnan, att hennes höghet själv om en liten stund ämnade avlägga visit.
“À, tôi chưa từng nghe về họ!”, anh trả lời, và bắt đầu trò chuyện với các quý cô. Nhưng anh bị ngắt lời bởi nữ nam tước, người bằng tiếng Thụy Điển hỗn hợp thông báo với chủ nhà rằng chính cô ấy sẽ đến thăm trong vài phút nữa.
»Då är det väl bäst att jag går», sade Fågelsång och reste sig.
“Vậy thì tốt nhất tôi nên đi”, Fågelsång nói và trỗi dậy.
»För ingen del», kom det i kör. »Prinsessan blir säkert charmerad av att få möta er.»
“Không, không hề!”, mọi người cùng nói. “Công chúa chắc chắn sẽ rất vui khi được gặp các bạn.”
Strax därpå kom också prinsessan, en smärt ung dam, åtföljd av ännu en hovfröken.
Ngay sau đó, công chúa, một thiếu nữ xinh đẹp, cùng với một thị nữ khác cũng đã đến.
Hon mottogs med all den ceremoni hennes rang krävde, och Fågelsång bugade så djupt, att han hörde hur det knackade i hängselstropparna.
Cô ấy được tiếp đón với tất cả những nghi lễ mà vị trí của cô ấy yêu cầu, và Fågelsång cúi chào sâu sắc, đến mức anh nghe thấy tiếng đai lưng rắc rắc khi anh cúi chào.
Hon såg ut precis som Fågelsång tänkt sig att en prinsessa borde.
Cô ấy trông giống như Fågelsång tưởng tượng một công chúa nên trông như thế nào.
Lång och smärt, försedd med lorgnett i sköldpadd och högdragen, oerhört högdragen.
Dài và mảnh khảnh, mang theo một chiếc lorgnette bằng da rắn và một dáng vẻ kiêu ngạo, cực kỳ kiêu ngạo.
När hon tilltalade någon av de andra unga damerna, reste sig denna genast upp och neg djupt, och Fågelsång, som hade lätt för att lära, bugade alltså djupt när han blev tilltalad. Och det blev många bugningar, ty högheten sysselsatte sig huvudsakligen med honom.
Khi cô ấy nói chuyện với một trong những thiếu nữ khác, người đó lập tức trỗi dậy và cúi chào sâu sắc, và Fågelsång, người dễ học hỏi, cũng cúi chào sâu sắc khi được nói chuyện. Và có rất nhiều lần cúi chào, vì công chúa chủ yếu dành thời gian cho anh ấy.
Och detta var ytterst ansträngande för Fågelsång, ty hon envisades att tala med honom på tyska, medan han endast kunde tala svenska. Det enda som hon fick av honom var därför ett i vånda framstammat:
Và điều này thật mệt mỏi với Fågelsång, vì cô ấy kiên quyết nói chuyện với anh bằng tiếng Đức, trong khi anh chỉ có thể nói tiếng Thụy Điển. Vì vậy, tất cả những gì anh ấy nhận được từ cô ấy chỉ là một tiếng thở dài:
»Nicht verstanden, Euers Hochzeit!»
“Không hiểu, cuộc hôn nhân của bạn!”
Ingen av de andra brydde sig om att uppträda som tolk, och högheten pratade på, utan att fästa sig vid hans distress.
Không có ai khác muốn đóng vai trò thông dịch, và công chúa tiếp tục nói chuyện, mà không hề để ý đến sự khó chịu của anh ấy.
Till slut blev situationen outhärdlig för Fågelsång. Han greps av förtvivlans mod, tog sin hatt, studsade upp ur stolen och grep med en underdånig bugning prinsessans hand.
Cuối cùng, tình hình trở nên không thể chịu đựng đối với Fågelsång. Anh ta nắm lấy sự dũng cảm tuyệt vọng, lấy mũ của mình, nhảy khỏi ghế và cúi chào một cách khuất phục trước tay của công chúa.
»Ajö, Euers Hochzeit!» sade han helt burdus, bugade hastigt för de övriga damerna och rusade i väg, utan att akta på de uppmaningar att stanna kvar, som i en välljudande kör klingade efter honom.
“Chúc mừng, cuộc hôn nhân của bạn!” anh ta nói một cách thô thiển, nhanh chóng cúi chào những quý cô khác và chạy trốn, không hề để ý đến những lời mời anh ở lại, vang lên như một dàn hợp xướng phía sau anh ta.
En liten stund senare satt han åter på Turisthotellets terrass, och lovade sig själv, att han hädanefter skulle akta sig för att slå ned på obekanta flickebarn, hur tilltalande de än månde vara.
Một lúc sau, anh ta lại ngồi trên sân thượng của khách sạn Turisthotel, và hứa với bản thân rằng từ nay về sau, anh ta sẽ tránh tán tỉnh những cô gái lạ, dù họ có hấp dẫn như thế nào.
Då fick han helt plötsligt se de fem unga damer han nyss lämnat, komma framåt promenaden.
Đột nhiên, anh ta thấy năm cô gái mà anh vừa rời khỏi, bước về phía mình.
Främst gick prinsessan och fröken Lingonhjelm arm i arm, bakom kommo de tre andra, och allesammans tycktes ha utomordentligt roligt.
Đi trước là công chúa và cô Lingonhjelm, tay trong tay, phía sau là ba cô gái khác, và tất cả có vẻ như đang vui chơi rất nhiều.
Fågelsång dolde sig omsorgsfullt för att inte bli sedd, men en ung man, som satt i ett sällskap vid närmaste bord, reste sig och hälsade artigt.
Fågelsång cẩn thận trốn khỏi tầm nhìn, nhưng một thanh niên trong nhóm ngồi tại bàn gần nhất, đã đứng dậy và chào anh một cách lịch sự.
»Var det inte landshövding Lingonhjelms flicka, den svarta?» frågade en av sällskapet.
“Đó không phải là con gái của thống đốc Lingonhjelm sao, cô gái da đen ấy?” một người trong nhóm hỏi.
»Jo, det var det!» svarade den unge mannen.
“Đúng vậy!” thanh niên trả lời.
»Vem var den andra, som höll henne under armen?»
“Và người khác, người nắm cánh tay cô ấy, là ai?”
»Det var en fröken Karlberg från Göteborg. Dotter till Karlberg & Svensson där.»
“Đó là cô Karlberg từ Gothenburg. Con gái của Karlberg & Svensson ở đó.”
Handelsagenten Fågelsång kände hur han blev alldeles kall. Så svor han till, tömde sin grogg och gick till hotellet för att packa.
Đại lý thương mại Fågelsång cảm thấy mình như bị đóng băng. Anh ta thề với lòng mình, uống hết cốc rượu và về khách sạn để đóng gói.

Herr Fågelsång I Societén